Quyền và tự do cá nhân trong mối quan hệ Nhà nước - công dân

01/12/2013

ThS. PHAN THANH HÀ

Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

1. Quyền và tự do cá nhân, những khía cạnh lý luận và lịch sử của vấn đề
Quá trình sáng tạo lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào nội hàm các quyền và tự do của con người để có thể từ đó xác định khả năng và giá trị xã hội của nó; và tất cả những cái đó đảm bảo tính chất của hoạt động sống, hệ thống các mối liên hệ, gắn bó, các quan hệ trong xã hội và các thiết chế nhà nước. Vì thế, vấn đề quyền con người luôn luôn là đối tượng của các cuộc đấu tranh giữa các nhóm, tập đoàn đối lập, nhằm giành lấy các quyền, lợi ích, tăng cường mở rộng quy chế về quyền con người trong xã hội. Và mỗi nấc thang phát triển của xã hội là một bước tiến trên con đường giành lấy và mở rộng quyền tự do. Lịch sử đã minh chứng rằng, cần phải nỗ lực thường xuyên để hỗ trợ và bảo vệ quyền và tự do của con người. Mỗi thế hệ phải trả lời theo tiếng gọi vĩnh cửu của lịch sử, gắn liền với việc bảo vệ giá trị thiêng liêng nhất, đó là tự do và quyền con người.
Quyền và tự do của cá nhân, cội nguồn nền tảng xã hội của nó, vai trò của nó, là một trong những vấn đề vĩnh cửu của sự phát triển văn hoá - xã hội của xã hội loài người hàng vạn năm nay. Trong các thời đại khác nhau, vấn đề đó thường xuyên là lĩnh vực chính trị pháp lý, đồng thời mang ý nghĩa tôn giáo, chủng tộc, hay triết học, phụ thuộc vào quan điểm xã hội của giai cấp cầm quyền, vào các điều kiện phát triển của từng thời kỳ lịch sử.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, chưa có nhà nước và pháp luật, con người bình đẳng với nhau, không có sự áp chế cường quyền, nhưng con người không thể tự do hoàn toàn mà phải phụ thuộc vào cộng đồng, vào thiên nhiên. Vì vậy, vấn đề quyền và tự do của cá nhân trong thời kỳ này không có ý nghĩa chính trị pháp lý.
Vấn đề chỉ được đặt ra từ khi có chế độ nô lệ, có nhà nước và pháp luật. Và cuộc đấu tranh giành quyền tự do, bình đẳng của con người cũng bắt đầu từ đây. Nội hàm giá trị quyền tự do và bình đẳng gắn liền mật thiết với quan niệm về nguồn gốc và vai trò của nhà nước. Nếu như vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ, ở những quốc gia có nền dân chủ phát triển như Hy Lạp, Roma, người ta đã đề cập đến quyền và tự do, dù chỉ đối với một bộ phận công dân (tự do) thì trong thời kỳ nhà nước quân chủ phong kiến, tự do cực kỳ bị hạn chế, bởi vì xã hội phong kiến là xã hội của sự phân biệt đẳng cấp và sự lệ thuộc. Xuất phát từ sự thần thánh hóa quyền lực, trong nhà nước quân chủ chuyên chế, Vua có quyền tối cao, tuyệt đối và được miễn trừ trách nhiệm; pháp luật là công cụ để cai trị thần dân. Tuy nhiên, cũng trong thời kỳ này, ở Anh đã xuất hiện mưu toan hạn chế quyền của vua chúa bằng việc ban hành Hiến chương vĩ đại về tự do (1215); trong đó có những điều khoản nhằm hạn chế sự tùy tiện của vua quan, đòi hỏi không được bổ nhiệm các quan tòa, các chức sắc nhà nước nếu họ không hiểu biết luật hoặc không muốn thực hiện luật pháp. Vào thời kỳ hình thành chế độ tư sản, đặc biệt cuối thế kỷ XVII (1678) ở Anh đã có bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người; cùng đồng thời với sự xuất hiện của nghị viện là sự xuất hiện khái niệm “thủ tục thích hợp”, nhằm đảm bảo sự bất khả xâm phạm của cá nhân, nguyên tắc suy đoán vô tội và những quy định khác nhằm bảo vệ quyền của cá nhân. Thuở mới ra đời, Quốc hội (Nghị viện) có một vị trí rất quan trọng trong cơ chế quyền lực nhà nước. Có một câu ngạn ngữ ở Anh: “Nghị viện có thể làm được tất cả, trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”. Tuy rằng nghị viện ra đời là một bước tiến của dân chủ và là sự bảo đảm tốt hơn quyền tự do của công dân; nhưng nghị viện cũng chỉ là một thiết chế trong hệ thống quyền lực nhà nước. Tính chất và mức độ đại diện của nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Các đạo luật do nghị viện thông qua có được thi hành trên thực tế hay không cũng là một vấn đề. Và điều quan trọng nhất là trong một thời gian khá dài, người ta vẫn quan niệm rằng các quyền và tự do của công dân là do nhà nước quy định trong các đạo luật của mình.
Tư tưởng về quyền tự nhiên không phân chia của con người theo học thuyết J. Rousseau, John Locke, Montesquieu, là nhân tố quan trọng của cuộc cách mạng vĩ đại ở Pháp; với sự ra đời văn bản pháp luật vô giá về giá trị lịch sử của nó là Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền 1789. Bản tuyên ngôn đã tuyên bố rằng: mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; mục đích của mọi sự liên minh chính trị là đảm bảo các quyền tự nhiên gắn liền với cá nhân con người - tự do, sở hữu, an toàn và chống áp bức. Bản tuyên ngôn tuyên bố nguyên tắc suy đoán vô tội, tự do nhân phẩm, tự do thể hiện ý kiến, xuất bản và đảm bảo quyền nhân thân, các quyền khác của công dân.
Vấn đề quyền con người gắn liền với lý luận về cá nhân và nhà nước trong triết học chính trị, phát triển vào thế kỷ XVIII. Đặc điểm căn bản nhất của học thuyết này là sự giả định về khả năng hài hòa mối quan hệ lợi ích của cá nhân và nhà nước. Tư tưởng này đã được thể hiện rõ trong tác phẩm của J.Rousseau “Khế ước xã hội”, ông đã phân tích khả năng xây dựng một chế độ nhà nước mà trong đó mọi người có thể tác động lẫn nhau và mỗi người đều có tự do riêng mình. Và như thế, theo J.Rousseau, điều đó chỉ có thể đạt được khi trong xã hội tồn tại sự “gắn bó hoàn toàn” nguyên tắc của cá nhân với nguyên tắc của nhà nước. Trong một chế độ nhà nước bình thường, khi thực hiện chủ quyền nhân dân, các cá nhân nhận được toàn bộ sự tự do cần thiết, đồng thời với tự do đó là sự bình đẳng tương ứng. Tự do gắn liền với thẩm quyền tham gia thực hiện chủ quyền nhân dân, còn bình đẳng có nghĩa là quyền đó thuộc về tất cả mọi người như nhau[1]. Theo quan điểm của nhà cách mạng Nga, trong nhà nước, thứ con người nhận được hoàn toàn tương đương với những gì mà anh ta mất đi khi khước từ quyền tự do tự nhiên của mình. Cá nhân có thể trả lại cho nhà nước tất cả để nhận được sự ghi nhận và bảo đảm phẩm giá của mình từ phía nhà nước; nói cách khác, “xác định tự do là vạch ra những giới hạn”[2].
“Con người sinh ra là tự do”[3]. Đó là lời của J.Rousseau, nhà tư tưởng kiệt xuất người Pháp, đã trở thành danh ngôn của thời đại mới, là nội dung quan trọng trong Lời tựa của các bản tuyên ngôn, những bản hiến pháp đầu tiên và các bản hiến pháp về sau của các thể chế dân chủ. Đó cũng là sự phản ứng tự nhiên của các nhà tư tưởng tiến bộ, ra đời trong cách mạng tư sản nhằm chống lại chính sách ngu dân, dốt nát, sự lộng quyền vô hạn độ và sự đàn áp cá nhân của chế độ phong kiến. Những khẩu hiệu tự do, bình đẳng và bác ái đã giúp cho giai cấp tư sản non trẻ thu hút về phía mình đông đảo lực lượng nhân dân vào cuộc đấu tranh giành quyền lực, chống lại nền quân chủ chuyên chế của châu Âu, tiếp thêm sức mạnh cho cách mạng Mỹ năm 1776, và kết thúc thắng lợi với bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ; cho Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789; và các bản tuyên ngôn này, đến lượt nó là cơ sở cho tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. Trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn của Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người cũng trích dẫn bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”[4].
Khi bàn về tự do của công dân, Montesquieu đã viết: “Tự do, với ý nghĩa triết học, là được thực hiện ý chí của mình, hoặc ít ra là được nói lên quan niệm về thực hiện ý chí ấy”[5] Bên cạnh đó, ông cũng đã nhận xét rằng: “Không có một từ nào lại có nhiều cách định nghĩa theo những lối suy nghĩ khác nhau như từ tự do… Nhưng tự do chính trị tuyệt đối không phải muốn làm gì thì làm. Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ có thể là được làm những cái nên làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm… Nếu một công dân làm điều trái luật thì anh ta không còn được tự do nữa, vì nếu để anh ta tự do làm thì mọi người được làm trái luật cả”[6]. Như vậy, trong một nước pháp quyền, tự do của một người phải đặt trong tự do của mọi người. Muốn có tự do chính trị thì công dân không được làm điều trái luật. Rõ ràng, tự do phải gắn liền với dân chủ. Chỉ có trong chế độ dân chủ thì quyền tự do mới được ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Sau cuộc cách mạng ở Pháp, trào lưu chính trị ở châu Âu tiếp tục phát triển với khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái. Bên cạnh đó, hình thành nên hai trường phái đổi mới lý luận về cá nhân và các quyền của tự do cá nhân. Một trường phái thì nhấn mạnh tư tưởng tự do, trường phái khác thì nhấn mạnh tư tưởng bình đẳng. Vấn đề là ở chỗ, thể chế chính trị mới giải phóng cá nhân thoát khỏi sự kìm kẹp và tàn dư của chế độ phong kiến, một thời gian sau đó được xác định là nhà nước pháp quyền, đối mặt với một khái niệm mới, mở rộng hơn về tự do và bình đẳng.        Tư tưởng của các học giả trong những năm đầu thế kỷ XIX đã khẳng định rằng J.Rousseau đã hiểu về tự do một cách hạn hẹp và phiến diện, đặt nhu cầu cá nhân phụ thuộc quá nhiều về tự do chính trị. Bên cạnh đó, tự do thực sự là tự do cá nhân còn tự do về chính trị chỉ là một trong những đảm bảo cho quyền tự do của cá nhân mà thôi.
Sự phát triển kế tục tư tưởng tự do và quyền con người được thể hiện trong các văn kiện vĩ đại mang tính lịch sử của Hoa Kỳ. Cội nguồn của các văn kiện này là học thuyết của triết học cổ Hy Lạp, học thuyết pháp quyền tự nhiên, triết học khai sáng: Đó là Tuyên ngôn độc lập 1776, Hiến pháp 1787, Đạo luật về các quyền 1789, phê chuẩn năm 1791.
Kết quả chủ yếu của mọi sự thay đổi trong quan điểm về tự do trong suốt thế kỷ XIX là bắt đầu có nhận thức thừa nhận tự do thay vì phủ định nó như trước đây. Và điều đó được thể hiện trong các công trình của những người đại diện cho chủ nghĩa tự do của Anh quốc vào đầu thế kỷ XX. Và từ đó cũng bắt đầu diễn ra quá trình tranh luận về một trong những quyền của con người mang tính chất nền tảng, đó là quyền được sống một cách xứng đáng, bao gồm trong đó ba loại quyền đặc biệt gắn mật thiết và gắn với nhân thân là quyền được sống, quyền tự do và quyền đối với tài sản.
Cũng trong thời kỳ này, sự thắng lợi của tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga cho một thời kỳ phát triển mới của khoa học chính trị - xã hội, triết học và pháp luật, đặt con người và các quyền con người trong sự phát triển biện chứng, hài hòa giữa cá nhân, nhà nước và xã hội.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, với sự ra đời của bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc, quyền con người trở thành giá trị chung phổ biến của nhân loại. “Việc bảo đảm quyền con người của mỗi quốc gia trước hết là trách nhiệm của quốc gia đó”. Tuy nhiên, “điều đó không phủ nhận tính phổ biến của nhân quyền”[7].  
2. Lý luận nhận thức về quyền và tự do của cá nhân ở Việt Nam
Lịch sử xã hội loài người nói chung, lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam nói riêng là lịch sử của quá trình đấu tranh vì độc lập, tự do và dân chủ. Khát vọng tự do và nhận thức về quyền tự do dân chủ gắn liền mật thiết với quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung, với mỗi quốc gia dân tộc nói riêng. Là hình thái ý thức phản ánh quá trình phát triển của xã hội, nhận thức là một quá trình phát triển từ thấp đến cao, là yếu tố chỉ đạo và đồng hành với toàn bộ hoạt động xã hội, toàn bộ sự nghiệp đấu tranh của mỗi dân tộc, mỗi con người vì độc lập, tự do, vì hòa bình và phát triển. “ Nét đặc trưng tiêu biểu của thế giới quan cách mạng Việt Nam thể hiện trong nhiều trường hợp thành Cương lĩnh chính trị chính thức trên suốt chiều dài đấu tranh chống họa xâm lược của nước ngoài, giữ vững quyền tồn tại, tự chủ của toàn dân tộc, là sự gắn bó hữu cơ giữa quyền dân tộc và quyền con người, giữa các quyền dân tộc cơ bản và các quyền con người cơ bản, trong đó ưu tiên được đặt lên hàng đầu là quyền giải phóng dân tộc và quyền độc lập dân tộc”[8]. “ Xét về cội nguồn, có thể nói các quyền con người - công dân của các cá nhân trong xã hội Việt Nam đương đại, là phát tích từ cuộc đấu tranh lâu dài của cả dân tộc vì độc lập tự do”[9].
Lý luận nhận thức về quyền tự do dân chủ của cá nhân công dân và thực tiễn bảo đảm các quyền công dân phụ thuộc vào nhận thức về bản chất và vai trò của nhà nước đối với đời sống xã hội. Trong nhận thức lý luận hiện đại, mối quan hệ giữa nhà nước - công dân được xây dựng trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà nước là một tổ chức quyền lực do nhân dân thiết lập nên để phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân; đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nền tảng tư tưởng của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà nội dung của hệ tư tưởng đó là phát triển vì con người, coi con người là mục tiêu và động lực của mọi sự phát triển. Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân; Nhà nước, công chức Nhà nước là “công bộc” của nhân dân. Trong rất nhiều tác phẩm bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ những đặc trưng của tư tưởng cách mạng về quyền con người trong quan hệ với Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân. Ví dụ, Nghị quyết Đại hội đại biểu quốc dân do Bác Hồ triệu tập và chỉ đạo hội nghị đã có quy định:.. “ 5. Ban bố những quyền của dân cho dân: a) Nhân quyền; b) Tài quyền (quyền sở hữu); c) Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền…”[10].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chính phủ ta đã hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”[11]. Nhân dân có thể phê bình Chính phủ, có thể thay đổi Chính phủ khi Chính phủ không thực hiện tốt trách nhiệm của mình trước nhân dân. Người khẳng định: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự lợi ích của nhân dân”[12] “Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”[13]. “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”[14].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà cách mạng đầu tiên nêu quan điểm và tuyên bố tư tưởng gắn tự do, bình đẳng của mỗi người với tự do, độc lập, quyền tự quyết dân tộc. Người đã chỉ rõ điều đó trong bản Tuyên ngôn Độc lập: “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, theo quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền tự do phải gắn với dân chủ là một giá trị phổ biến, đồng thời quyền tự do của mỗi người phải gắn với độc lập, tự quyết của dân tộc. Nhưng muốn có tự do, dân chủ thì phải có Hiến pháp. Người đã từng nói trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 3/9/1945: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp Dân chủ”[15].
Kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, chính quyền dân chủ nhân dân được thành lập, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập tự do, sánh vai bình đẳng cùng các dân tộc khác tiến bước trên con đường phát triển mới. Sau ngày thống nhất đất nước, cùng với quá trình đổi mới và dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội, tiếp tục khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng chỉ đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ và lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.    
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quí hơn độc lập, tự do” đã trở thành mục tiêu và lẽ sống của dân tộc Việt Nam; và cũng là động lực to lớn tạo nên ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc trong suốt quá trình phát triển. Nhân tố con người và quyền tự do của mọi người là mục tiêu và lý tưởng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một cách khách quan rằng, trước thời kỳ Đổi mới, mà cụ thể hơn là trước khi ban hành Hiến pháp năm 1992, lý luận nhận thức về quyền tự do, dân chủ của công dân còn chịu nhiều ảnh hưởng của cách tiếp cận duy ý chí. Cả trong thời kỳ Đổi mới, mặc dù các văn kiện của Đảng và Hiến pháp đã chính thức thừa nhận quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội; đồng thời Việt Nam đã là thành viên của các Công ước quốc tế về quyền con người, nhưng nhận thức về quyền tự do dân chủ cũng như quyền con người nói chung mới chỉ dừng lại ở mức độ quyền công dân, được pháp luật ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ (Điều 50 Hiến pháp 1992). Định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã được xác định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), và các văn bản pháp luật được ban hành trên cơ sở Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới nhận thức và bảo đảm thực hiện quyền tự do dân chủ của công dân. Mặc dù vậy, phải đến giữa thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XXI, Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đề cập đến vấn đề quyền con người, đồng thời là thời kỳ thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, thì nhận thức lý luận về quyền con người nói chung, quyền tự do dân chủ của công dân nói riêng mới thực sự trở thành một hệ thống tương đối hoàn chỉnh. Hệ thống lý luận đó có những điểm cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, điểm cơ bản nhất trong nhận thức lý luận về quyền tự do dân chủ của công dân trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam thời gian qua, đó là xác định quyền, tự do là giá trị phổ biến, khách quan, không ngừng phát triển; đồng thời nội dung quyền tự do, dân chủ của công dân trong mỗi thời kỳ phát triển cũng mang tính đặc thù; 
- Thứ hai, nhận thức về sự gắn kết hữu cơ giữa quyền tự do dân chủ của công dân với chủ nghĩa hợp hiến. Nội dung của chủ nghĩa hợp hiến trong mỗi giai đoạn phát triển phụ thuộc vào quan điểm tiếp cận đối với cơ chế quyền lực theo Hiến pháp, đồng thời phụ thuộc vào hiệu lực và hiệu quả của Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ Việt Nam đầu tiên đề xướng chủ nghĩa hợp hiến, mối quan hệ giữa quyền tự do dân chủ với Hiến pháp; mục tiêu và giới hạn quyền lực của nhà nước là quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân; Trong bản Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013), nội dung quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong chương 2 với cách tiếp cận mới khi quy định các quyền cụ thể, bảo đảm tính thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa các quyền trong một hệ thống chỉnh thể; đồng thời tăng cường năng lực chịu trách nhiệm của các thiết chế công quyền trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ các quyền, tự do của cá nhân công dân.
- Thứ ba, thành tựu tiếp theo của nhận thức lý luận là xác định mối liên hệ hữu cơ giữa quyền tự do dân chủ của công dân với chế độ dân chủ của Nhà nước; nhân dân là chủ thể mọi quyền lực Nhà nước và xã hội. Để nhân dân có thể trở thành chủ thể thực sự mọi quyền lực nhà nước và xã hội, thì trước hết mọi cá nhân trong xã hội phải có quyền tự do dân chủ; mặt khác, quyền tự do dân chủ của công dân là thước đo mức độ dân chủ hóa của chế độ nhà nước.
Khi bàn về vai trò của nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, các học giả nhấn mạnh: “Với sự xuất hiện của tư tưởng về nhà nước pháp quyền, nhân loại đã tìm ra câu trả lời đúng đắn rằng, quyền lực nhà nước là của nhân dân hay chỉ có nhân dân mới là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực đó… Nhân loại đã kéo nhà nước từ thiên đình xuống trần gian và từ đạo đức, lý trí được lý tưởng hoá của giai cấp cầm quyền áp bức, bóc lột xuống thành của người dân. Chỉ có nhân dân bằng ý chỉ chung của mình liên hiệp lại và lập nên nhà nước. Tính cách mạng của quan niệm này là ở chỗ, nhân dân có quyền lựa chọn nhà nước, lựa chọn các đại biểu của mình tham gia công việc nhà nước. Khi nhà nước không đáp ứng yêu cầu của nhân dân, thì chính nhân dân có quyền thay thế nhà nước ấy bằng một nhà nước khác. Bản thân nhà nước không có quyền mà chỉ được nhân dân uỷ quyền. Quyền lực của người cầm quyền có thể bị tước bỏ. Quyền lực của nhân dân thì không ai có thể tước bỏ. Chủ quyền tối cao là sự thể hiện ý chí chung nên không thể tự nó bỏ nó đi được”[16].
- Thứ tư, xác định nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân.   
Mỗi cá nhân công dân gắn với một nhà nước nhất định. Vì vậy, quy chế về quyền, tự do của công dân được xác định bởi một nhà nước nhất định. Quyền và tự do của công dân là quyền tự nhiên mang tính khách quan, được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Theo Hiến pháp năm 1992, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ do Hiến pháp và các đạo luật quy định (xem Điều 51 Hiến pháp năm 1992). Sự ghi nhận này thể hiện nhận thức các quyền công dân là giá trị xã hội cao quý nhất mà Nhà nước và xã hội tôn trọng và bảo vệ; mặt khác, xuất phát từ nguyên tắc về tính tối thượng của Hiến pháp và luật, việc tuân thủ và đảm bảo thực hiện các quy định Hiến pháp và luật là yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể; Không cho phép sự tùy tiện trong quá trình áp dụng hay hướng dẫn thực hiện khác với quy định của luật bằng các văn bản dưới luật.
Tư tưởng về trách nhiệm của nhà nước đối với quyền tự do dân chủ của công dân là một trong những nội dung quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật XHCN. GS.TS Trần Ngọc Đường đã nhận định: “Quyền con người, quyền công dân không tách rời với nghĩa vụ của công dân và mối quan hệ thống nhất về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa Nhà nước và công dân bằng việc đề cao trách nhiệm pháp lý của mỗi bên chủ thể”[17]. “Cùng với việc quy định mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ pháp lý của một người, Hiến pháp năm 1992 còn quy định trách nhiệm pháp lý theo nguyên tắc quyền của công dân là nghĩa vụ công dân. Điều đó thể hiện trách nhiệm của Nhà nước là phải coi các quyền của cá nhân công dân là nghĩa vụ pháp lý của mình, các cơ quan Nhà nước và các nhân viên có trách nhiệm và nghĩa vụ thi hành. Ngược lại, đối với cá nhân công dân cũng như vậy. Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện sâu sắc nhận thức: Ở Việt Nam không thể và không cho phép tồn tại quan hệ mà một bên chỉ có quyền, bên kia chỉ có nghĩa vụ. Vì thế, khi nói tới hệ thống các quyền và nghĩa vụ của công dân cũng tức là nói tới hệ thống các nghĩa vụ và các quyền tương ứng của Nhà nước”[18].
Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự hiện diện của Hiến pháp phải gắn liền với hệ thống bảo hiến thì quyền tự do dân chủ của công dân mới được bảo đảm. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, nhiều ý kiến đã khẳng định rằng không phải tất cả các quyền con người, quyền công dân được xác định theo nguyên tắc như giáo sư, tiến sĩ Trần Ngọc Đường đã nêu trên đây. Ví dụ, Hiến pháp chỉ quy định là nghĩa vụ nộp thuế mà không thể là quyền nộp thuế, hay chỉ xác định là quyền tự do đi lại, cư trú, quyền bầu cử, ứng cử mà không xác định là nghĩa vụ bầu cử…
Quan điểm về một thiết chế bảo hiến độc lập chưa được hiện thực hóa trong Hiến pháp sửa đổi lần này. Có thể xem đây như một sự chần chừ, lưỡng lự đáng tiếc, bỏ qua cơ hội để hoàn thiện thêm một bước hệ thống bảo hiến theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền.
Tóm lại, về cơ bản, nhận thức lý luận về quyền tự do dân chủ của công dân ở Việt Nam trong thời gian qua đã thể hiện là một quá trình tiếp nhận, kế thừa, thể hiện những giá trị cơ bản, những giá trị phổ biến, khách quan và đặc thù trong hệ thống lý luận nhận thức của nhân loại, của quốc gia, dân tộc ta về vai trò, vị trí của cá nhân, về mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước và các thiết chế khác trong xã hội; đồng thời phản ánh thực tiễn xây dựng một xã hội mới, xã hội XHCN vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân; trong đó con người và quyền tự do dân chủ của công dân là mục tiêu và động lực của mọi chủ trương, chính sách và hoạt động của các chủ thể trong Nhà nước và xã hội.
Nhận thức là một quá trình. Nhận thức được quyền tự do dân chủ, mà thực chất là quyền con người và hiện thực hóa các quyền đó vào thực tế cuộc sống đặt trong mối quan hệ nhà nước – công dân là một quá trình lâu dài, với những bước thăng trầm trong toàn bộ tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Với Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2013, những phát triển mới, những giá trị cơ bản của hệ thống lý luận nhận thức trong thế giới hiện đại về quyền con người, quyền công dân đã được thể hiện khá hoàn chỉnh. Vấn đề hết sức quan trọng của những chặng đường  phía trước còn lại là cơ chế bảo đảm cho những quy định của Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về quyền con người, quyền công dân thực sự đi vào cuộc sống./.  


[1]Văn minh nhân loại., Jean-Jacques Rousseau, Bàn về khế ước xã hội (Du Contral Social), Người dịch: Thanh Đạm,. NXB TP. Hồ Chí Minh, 1992.
[2]N.M. Voskrenckaia, Chế độ dân chủ, Nhà nước và xã hội, Phạm Nguyên Tường dịch, NXB Tri thức, H., 2009.
[3]Văn minh nhân loại. Tlđd
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, H., tr 368
[5] Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật; Người dịch: Hoàng Thanh Đạm; Nxb Lý luận chính trị, H, tr.127.
[6]Montesquieu, Sđd, tr 103-105;
 
[7]Quyền con người trong thế giới hiện đại (Phạm Khiêm Ích - Hoàng Văn Hảo Chủ biên), Viện Thông tin KHXH., H, 1995., tr 10.
[8] GS.TS Trần Văn Bính (chủ biên) Toàn cầu hóa và quyền công dân ở Việt Nam, Nhìn từ khía cạnh văn hóa (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, H, 2003, tr. 120;
[9]GS.TS Trần Văn Bính (chủ biên) sđd, tr.114
 
[10] Văn phòng Quốc hội, Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946- 1960, Nxb Chính trị quốc gia, HN 1994, tr 227)
[11] Hồ Chí Minh., Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2000, tr.56
[12]Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 9., Nxb Chính trị Quốc gia, , H, 2000, tr.591
[13]Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2002, tr.322;
[14]Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tr. 1;
[15] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4,.Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, , tr. 8;
[16]GS. TSKH Đào Trí Úc (chủ biên) “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,, NXB Chính trị quốc gia, HN., 2005. tr 28-29.
 
[17]GS.TS Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam (sách chuyên khảo); Nxb Chính trị Quốc gia –Sự thật, HN , 2011. tr.80;
[18]GS.TS Trần Ngọc Đường, Sđd.,. tr.80;
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24(256), tháng 12/2013)