Tranh tụng trong tố tụng: những khiếm khuyết và hướng hoàn thiện

01/11/2013

TS. NGUYỄN QUANG HIỀN

TAND Quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh.

Tư tưởng cải cách tư pháp, mở rộng tranh tụng tại phiên tòa là khâu đột phá trong hoạt động tố tụng nước ta. Tư tưởng này đã được sự ủng hộ đông đảo của xã hội, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố tụng, tạo nên không khí dân chủ trong xã hội, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và những người THTT, góp phần làm hạn chế tình trạng oan, sai trong tố tụng hình sự (TTHS) và vi phạm pháp luật (VPPL) trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Cụ thể như pháp luật TTHS đã quy định vị trí, vai trò chức năng của Viện kiểm sát (VKS) theo hướng phân định rõ chức năng buộc tội là chức năng cơ bản, chủ yếu so với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật dần dần được thu hẹp lại. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của bên buộc tội, các quyền và nghĩa vụ của bên gỡ tội, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh tụng bình đẳng trong quá trình tố tụng. Để nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm sự tranh tụng bình đẳng giữa các bên trong tố tụng, pháp luật tố tụng quy định ngoài các quyền của người bị buộc tội còn quy định rõ về trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan THTT, mở rộng quyền bào chữa, trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa.
Untitled_1039.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1.Những khiếm khuyết 
Bên cạnh những thành tựu đạt được, tranh tụng trong tố tụng ở nước ta vẫn còn những khiếm khuyết sau:
Mô hình tố tụng của nước ta hiện nay về cơ bản áp dụng mô hình tố tụng xét hỏi, tranh tụng vẫn chưa thực sự được quan tâm trên cả phương diện nhận thức, lý luận, lập pháp và áp dụng pháp luật. Pháp luật chưa thực sự ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng, tư tưởng tranh tụng chưa được nhà làm luật thể hiện xuyên xuốt trong quá trình hoạt động tố tụng, mà tranh tụng mới chỉ được thể hiện một phần khiêm tốn tại phiên tòa, chưa được thể hiện từ giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố.
Pháp luật tố tụng hiện hành quy định về vị trí, vai trò, chức năng của các cơ quan THTT, người THTT chưa thực sự được minh bạch, rõ ràng, nên có sự mâu thuẫn, lẫn lộn về chức năng nhiệm vụ của các cơ quan THTT. Ví dụ như, VKS vừa thực hiện chức năng buộc tội (là chủ thể của một bên tranh tụng) lại vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng (cũng là chủ thể của một bên tranh tụng) và kiểm sát cả hội đồng xét xử (HĐXX), không khác nào “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Còn Tòa án là cơ quan trọng tài, xét xử nhưng lại có quyền khởi tố vụ án hình sự, có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có trách nhiệm chứng minh tội phạm và vẫn phải nghị án khi VKS rút toàn bộ cáo trạng… 
Việc tổ chức phiên tòa theo yêu cầu của cải cách tư pháp chưa được đề cao và toàn diện, tranh tụng chưa thực sự được tôn trọng và dân chủ. Kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa chưa đáp ứng được yêu cầu của tranh tụng, kiểm sát viên còn ít tham gia vào quá trình xét hỏi, chưa tích cực tranh luận, phản biện, đối đáp với bên đối lập để bảo vệ quan điểm buộc tội. Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên với người bào chữa còn hạn chế, đôi khi còn hình thức, không coi tranh tụng là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, là phương tiện để tìm ra chân lý, thiếu chủ động trong tranh tụng, thậm chí không tranh luận mà thường phát biểu là giữ nguyên cáo trạng cho an toàn, để tránh các trường hợp có khả năng phát sinh hoặc chưa được làm rõ. Vai trò của người bào chữa một mặt chưa được tôn trọng, ý kiến của người bào chữa đưa ra không được kiểm sát viên phản hồi, phản biện, tranh tụng hoặc chuyển đẩy cho HĐXX. Bên cạnh đó, có không ít người bào chữa năng lực còn hạn chế, chất lượng tranh tụng yếu kém, dẫn đến tranh tụng nhiều về vị trí pháp lý của bên đối lập và có tư tưởng cho rằng, chức năng xét xử, ra quyết định hoặc bản án là trách nhiệm của Tòa án. HĐXX nhiều khi làm thay chức năng của bên buộc tội, thời gian HĐXX dành cho việc xét hỏi nhiều hơn là việc lắng nghe hai bên đối lập tranh tụng… 
Vai trò, vị trí và hoạt động thực tế của các chủ thể tranh tụng đều chưa thực hiện đúng, HĐXX cụ thể là thẩm phán, chủ tọa phiên tòa điều hành vẫn theo cách thức truyền thống là xét hỏi, áp đặt trên cơ sở tài liệu đã có sẵn trong hồ sơ; thậm chí trong quá trình tranh tụng, HĐXX lại là chủ thể tranh tụng tích cực với người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, làm thay vị trí, công việc của kiểm sát viên. Điều kiện tranh tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa đáp ứng được các bảo đảm cần thiết cho tranh tụng, như số lượng người bào chữa ít, điều kiện tham gia bào chữa còn khó khăn.
Pháp luật tố tụng chưa xác định rõ vị trí, chức năng của Tòa án là cơ quan trọng tài, phán quyết, do vậy, đã xếp Tòa án vào nhóm các cơ quan THTT (cùng với cơ quan điều tra -CQĐT- và VKS), chánh án, phó chánh án, thẩm phán và hội thẩm, thư ký vào nhóm những người THTT (cùng với thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, điều tra viên, viện trưởng, phó viện trưởng VKS, kiểm sát viên). Cách quy định như vậy không hợp lý, không thấy rõ được chức năng, vị trí, vai trò của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng, từ đó dẫn tới hệ lụy trong hoạt động tố tụng là các cơ quan THTT (CQĐT, VKS, Tòa án) là “chủ thể chính”, còn các chủ thể khác tham gia tố tụng là “chủ thể phụ”. Từ đó cho thấy, chỉ có chủ thể chính mới có quyền thu thập, đánh giá chứng cứ, tiến hành các hoạt động tố tụng, còn các chủ thể phụ không được các quyền đó, nhưng thực chất tất cả đều là những chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động tố tụng để hướng tới giải quyết vụ án.
Những quy định tại các Điều 13 Bộ luật TTHS: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”; “HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra” (Điều 104 Bộ luật TTHS); “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, CQĐT, VKS và Tòa án phải chứng minh có hành vi phạm tội… Ai là người phạm tội…” (Điều 63 Bộ luật TTHS); “Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và Tòa án có quyền triệu tập…” (Điều 65 Bộ luật TTHS); “Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” (Điều 179 Bộ luật TTHS) cho thấy, pháp luật TTHS đã xác định Tòa án có trách nhiệm chứng minh và có quyền thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, đồng nhất trách nhiệm Tòa án với trách nhiệm của CQĐT, VKS là cơ quan buộc tội. Việc quy định Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vô hình trung đã giao cho Tòa án làm thay chủ thể buộc tội và cũng là chủ thể buộc tội. Ngoài ra, trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng VKS không chấp nhận yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử. Điều này ảnh hưởng tới nguyên tắc vô tư, khách quan trong chức năng xét xử của Tòa án, kéo dài thời gian tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Trong giai đoạn xét hỏi, pháp luật TTHS quy định theo hướng đặt nặng trách nhiệm xét hỏi lên HĐXX, dẫn đến các cơ quan buộc tội không chủ động, tích cực trong xét hỏi. Điều 207 Bộ luật TTHS quy định: “Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến hội thẩm, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa…”. Mà đáng lẽ ra cần phải quy định bên buộc tội phải là bên khởi động hỏi trước để bảo vệ, chứng minh cho quan điểm buộc tội của mình là có căn cứ và đúng pháp luật, sau đó đến bên gỡ tội hỏi để bảo vệ, chứng minh cho quan điểm gỡ tội của mình.
Điều 221 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi nghị án, HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó”.  Điều 222 Bộ luật TTHS quy định: “ Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án, nếu có căn cứ xác định bị cáo không phạm tội thì HĐXX tuyên bố bị cáo không có tội, nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ  thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp”. 
Như chúng ta đều biết, quan hệ pháp luật tố tụng luôn luôn và chỉ tồn tại khi có hai chủ thể đối lập xuất hiện và tồn tại, đó là một bên buộc tội, bên yêu cầu và bên kia là bên gỡ tội, bên bác yêu cầu. Cho nên, khi một bên buộc tội, bên yêu cầu rút toàn bộ quyết định truy tố, yêu cầu thì đương nhiên quan hệ tố tụng đó không còn tồn tại và cũng đương nhiên là không tồn tại chức năng xét xử. Việc quy định HĐXX vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án là không cần thiết, không phù hợp với tính chất, nguyên tắc của tranh tụng vì trong trường hợp này, quan hệ pháp luật tố tụng không còn chức năng buộc tội, cho nên cũng không cần thiết phải có chức năng gỡ tội và chức năng xét xử.
Pháp luật tố tụng quy định VKS vừa có chức năng buộc tội vừa có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là không khoa học, không bảo đảm tính khách quan và cũng không bảo đảm cho các yêu cầu của tranh tụng. Việc quy định như vậy cho thấy VKS có quyền kiểm sát cả hoạt động xét xử của HĐXX, không thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình là chủ thể buộc tội, là một bên đối lập của tranh tụng. Mặt khác, VKS là bên buộc tội về thực tế đã có nhiều “thế mạnh” hơn bên gỡ tội - “ bên yếu thế”, lại còn có cả quyền kiểm sát tất cả hoạt động của các chủ thể tham gia pháp luật tố tụng, trong khi đó lại không có ai kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. VKS và CQĐT đều là chủ thể buộc tội nhưng VKS lại không thuộc hệ thống các cơ quan hành pháp, hoạt động công tố tách rời hoạt động điều tra làm cho hoạt động điều tra, truy tố bị rời rạc ảnh hưởng đến chất lượng, phá vỡ tính thống nhất của chức năng buộc tội.
Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) quy định: “TAND tối cao quản lý về mặt tổ chức các TAND địa phương” vô hình trung đã biến TAND tối cao vừa là cơ quan xét xử (phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các quyết định hoặc bản án của TAND địa phương), vừa là cơ quan quản lý nhà nước (bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán, chánh án, phó chánh án TAND các cấp). Mặt khác, thông qua quan hệ hành chính chỉ đạo và điều hành, tính độc lập của các Tòa án địa phương bị ảnh hưởng, tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán không được đảm bảo, mà chúng ta đều biết, trong hoạt động tố tụng không có cấp trên cấp dưới, mà chỉ là cấp 1 (sơ thẩm) cấp 2 (phúc thẩm) và hai cấp đó độc lập với nhau. Bên cạnh đó, khoản 5 Điều 40 Luật Tổ chức TAND quy định thẩm phán bổ nhiệm theo nhiêm kỳ là 5 năm, nên đã tạo ra tình trạng thẩm phán phụ thuộc nhất định vào chính quyền cơ sở, vào Tòa án cấp trên, hội đồng tuyển chọn, từ đó có tác động, ảnh hưởng đến tâm lý, bản lĩnh của thẩm phán trong xét xử, nhất là vào thời điểm chuẩn bị làm hồ sơ tái bổ nhiệm.   
Triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 05/11/2002 TAND tối cao ban hành Kết luận số 290 xác định “Nội dung của tranh tụng là tranh luận làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết của vụ án, áp dụng đúng những quy định của pháp luật để giải quyết vụ án”. Hướng dẫn này là không khoa học, không đúng với bản chất của tranh tụng, làm không ít cơ quan THTT, những người THTT, những người tham gia tố tụng đồng nhất tranh tụng với tranh luận. Như đã phân tích, tranh tụng có ở tất cả các giai đoạn tố tụng, tranh tụng từ thủ tục thu thập, đánh giá nguồn chứng cứ, triệu tập người vào tham gia tố tụng, thay đổi những người THTT… Còn trong giai đoạn xét xử, tranh luận thì tranh tụng được thể hiện tập trung, điển hình, rõ nét hơn mà thôi, chứ không phải là tranh tụng chỉ có khi lúc tranh luận, hay tranh tụng đồng nghĩa với tranh luận. 
2. Hướng hoàn thiện
Sự cần thiết quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hiện nay là một yêu cầu tự nhiên, một tất yếu khách quan. Nhưng việc quy định và áp dụng nguyên tắc tranh tụng như thế nào? Phục vụ các mục tiêu cụ thể gì? Cần phải đặt nó vào trong bối cảnh và với những yêu cầu cụ thể, để phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước, bảo đảm và phát triển quyền con người, quyền công dân.
Trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu cải cách tư pháp mà Nhà nước ta đặt ra mục tiêu là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ và nghiêm minh, từng bước hiện đại để phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý. Như vậy, mục tiêu của cải cách tư pháp là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người, các cơ quan tổ chức tư pháp phải là công cụ có hiệu quả để bảo vệ công bằng, bình đẳng, trật tự, dân chủ và công lý, không chỉ trong đời sống xã hội mà chính ngay trong hoạt động tư pháp, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân trong quá trình hoạt động tố tụng. Bảo đảm nguyên tắc mọi phán quyết của Tòa án đều phải dựa trên kết quả của quá trình tranh tụng dân chủ, bình đẳng và công khai.
Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng phải đáp ứng được yêu cầu tạo ra những hành lang pháp lý cụ thể trong việc bảo đảm cho các chủ thể “yếu thế” được thực hiện đầy đủ các quyền của mình mà pháp luật đã ghi nhận trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Phải kết hợp hài hòa nguyên tắc tranh tụng với các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng, phải tạo ra sự tác động và hỗ trợ lẫn nhau, đáp ứng các yêu cầu cơ bản của tố tụng là dân chủ, khách quan, bình đẳng… để tạo nên một cơ chế tố tụng công bằng, hiệu quả, nhằm mục đích bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng. Bên cạnh đó, việc xây dựng nguyên tắc tranh tụng phải kết hợp hài hòa giữa pháp luật tố tụng truyền thống và pháp luật tố tụng hiện đại trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa. Mặt khác, việc xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan, truyền thống, lịch sử, kinh tế, văn hóa… đặc biệt là các nguyên tắc, mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nói riêng, bộ máy nhà nước nói chung. 
Tranh tụng cần được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
Nội dung của nguyên tắc tranh tụng cần thể hiện rõ các vấn đề cơ bản: Hoạt động tố tụng phải được tiến hành trên cơ sở tranh tụng giữa các bên đối lập. Chức năng buộc tội, yêu cầu - chức năng gỡ tội, phản bác yêu cầu - chức năng xét xử , phải độc lập với nhau. Chủ thể buộc tội, yêu cầu - chủ thể gỡ tội, phản bác yêu cầu có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, chứng cứ, đưa ra các yêu cầu và tranh tụng công khai, dân chủ trong suốt quá trình tố tụng, đặc biệt là trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm cao nhất để tạo ra những điều kiện cần thiết để cho các bên thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình mà pháp luật quy định. Quyết định hoặc bản án của Tòa án phải được căn cứ vào kết quả tranh tụng bình đẳng, dân chủ, công khai.
Tranh tụng cần được thể chế hóa trong các quy định cụ thể của hoạt động tố tụng
Một là, pháp luật TTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng tách bạch và phân định rõ các chức năng cơ bản của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS, đó là chức năng buộc tội - chức năng gỡ tội - chức năng xét xử. 
Về chức năng của Tòa án: Theo pháp luật TTHS hiện hành, Tòa án là cơ quan trọng tài, xét xử nhưng lại có quyền khởi tố vụ án hình sự, quyền trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, có trách nhiệm chứng minh tội phạm và trong trường hợp VKS rút toàn bộ cáo trạng thì HĐXX vẫn phải nghị án… Các quy định như vậy là không khoa học, không bảo đảm cho Tòa án thực sự là trọng tài khách quan, vô tư trong xét xử, nên thiết nghĩ cần phải sửa đổi. 
Điều 10 Bộ luật TTHS nên sửa thành “CQĐT, VKS phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có… Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT và VKS...”.
Về chức năng của VKS: Theo pháp luật TTHS hiện hành, VKS là cơ quan công tố (chức năng buộc tội) nhưng lại có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử (kể cả HĐXX). Quy định như vậy là không khoa học, dẫn đến độc quyền, không khách quan trong khi thực hiện chức năng buộc tội. VKS là một bên đối lập của quan hệ pháp luật tố tụng có chức năng buộc tội, lại có quyền kiểm sát chức năng gỡ tội của chủ thể đối lập còn lại, chức năng xét xử của Tòa án. Như vậy, là “vừa đá bóng vừa thổi còi”, nên thiết nghĩ cần phải sửa đổi theo hướng bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS.
Về chức năng của CQĐT: Pháp luật TTHS cần quy định rõ trách nhiệm của điều tra viên khi THTT, khi hỏi cung thì phải thông báo cho người bị buộc tội có các quyền gì mà pháp luật quy định, quyền được thuê người bào chữa và giới thiệu danh sách người bào chữa để cho người bị buộc tội lựa chọn, có quyền từ chối đưa ra lời khai (quyền im lặng), quyền phản đối việc buộc tội… 
Về chức năng gỡ tội: Người bị buộc tội có quyền chứng minh mình không phạm tội, nhưng đây không phải là nghĩa vụ. Đơn giản hóa việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người bào chữa, giấy chứng nhận bào chữa chỉ cần cấp một lần và có giá trị trong suốt quá trình tham gia hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án, khi người bị buộc tội không có yêu cầu thay đổi người bào chữa. Người bào chữa được thông báo và được có mặt trong khi khám xét, thu giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện trường, trong khi hỏi cung người bị buộc tội. Pháp luật TTHS nên quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của bên gỡ tội cũng như cơ chế bảo đảm, tạo điều kiện cho hoạt động đó. Mặt khác, cũng nên quy định người bào chữa có quyền mời người làm chứng tham gia tố tụng để làm sáng tỏ sự thật vụ án, có như vậy mới bảo đảm sự bình đẳng trong tranh tụng. 
Điều 63 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, CQĐT, VKS phải chứng minh có hành vi phạm tội… Ai là người phạm tội...”. Điều 65 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS  có quyền triệu tập…”.  
Để bảo đảm cho người bị buộc tội, người bào chữa thu thập chứng cứ gỡ tội, pháp luật nên quy định cụ thể cơ chế bảo đảm để tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền của mình. Trong tương lai gần, cần ban hành Luật Chứng cứ để làm cơ sở cho sự nhận thức đúng về khái niệm chứng cứ, những chủ thể có quyền thu thập, cung cấp, bảo quản, đánh giá chứng cứ…
Hai là, xuất phát từ bản chất, nguyên tắc, mục đích của tranh tụng, pháp luật TTHS cần sửa đổi theo hướng người bị buộc tội khi bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu không phải trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang thì phải có sự phê chuẩn của Tòa án, theo như quy định hiện nay thuộc về CQĐT và cơ quan VKS là không khách quan, vô tư khi họ đồng thời là chủ thể thực hành chức năng buộc tội, một chủ thể đối lập trong tranh tụng.
Ba là, để bảo đảm tính khách quan và đúng chức năng xét xử của Tòa án, cần sửa đổi Điều 13, Điều 104 Bộ luật TTHS theo hướng bỏ thẩm quyền của Tòa án, của HĐXX trong việc khởi tố vụ án hình sự.
Điều 13 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT, VKS trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội ”.
Điều 104 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”. 
Mặt khác, cần xem xét, sửa đổi theo hướng bỏ thẩm quyền của Tòa án trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. Điều 179 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “VKS khi thấy cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác thì đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung”.
Bốn là, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Điều 196 Bộ luật TTHS cần phải nghiên cứu, sửa đổi theo hướng, Tòa án chỉ xét xử người bị buộc tội trong phạm vi cáo trạng của VKS. Người bị buộc tội có quyền hỏi người làm chứng trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử.
Năm là, các Điều 217, 218 của Bộ luật TTHS nên quy định một cách cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh luận tại phiên tòa theo hướng yêu cầu bên đối lập chứng minh những luận cứ mà họ đưa ra, giải thích những vấn đề chưa rõ. Đồng thời quy định người điều khiển phiên tòa phải bảo đảm duy trì cho việc tranh tụng được dân chủ, khách quan và phải tạo điều kiện tối đa cho các bên tranh tụng được trình bày hết những vấn đề họ cần tranh tụng. 
Điều 207 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Khi xét hỏi, kiểm sát viên hỏi trước, sau đó đến người bào chữa và những người khác nếu có yêu cầu hỏi khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý...”. 
Điều 221, 222 Bộ luật TTHS nên sửa thành: “Trong trường hợp kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi nghị án thì HĐXX tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội hoặc  đình chỉ vụ án”.
Xây dựng các biện pháp bảo đảm tranh tụng 
Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được khả thi, cần thiết phải có những biện pháp sau:
Bên cạnh sự cần thiết phải sửa đổi Bộ luật TTHS hiện hành thì đồng thời phải tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Việc cải cách hệ thống tư pháp phải được xác định theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”, “Nghiên cứu chuyển VKS thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”.
Cải cách đồng bộ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước tham gia vào hoạt động tố tụng, cụ thể là:
 - Phân định rõ chức năng xét xử của Tòa án với chức năng buộc tội của VKS.
 - Cần có cơ chế cho việc đảm bảo nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
 - Cần xem xét lại cơ chế bổ nhiệm thẩm phán theo nhiệm kỳ, cơ chế này làm ảnh hưởng rất lớn tới tính độc lập xét xử của thẩm phán và cũng chính cơ chế này dẫn đến sự buông lỏng, “thư giãn”, tiêu cực, khi thẩm phán ở trong nhiệm kỳ cuối cùng. Tăng nhiệm kỳ của các chức danh tư pháp hoặc chuyển đổi cơ chế nhiệm kỳ sang chế độ bổ nhiệm không thời hạn của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán.
 - Xác định lại chức năng của VKS, nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của kiểm sát viên. Chuyển đổi mô hình VKS hiện hành thành Viện công tố trực thuộc hệ thống cơ quan hành pháp. Viện công tố là cơ quan chỉ đạo CQĐT trong hoạt động tố tụng, mọi kết luận của CQĐT phải có sự phê chuẩn của Viện công tố, Viện công tố buộc tội tại phiên tòa. 
 - Xác định lại chức năng của CQĐT, nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của điều tra viên. CQĐT hỗ trợ, phục vụ cho chức năng công tố của Viện công tố, CQĐT cần được tổ chức theo hệ thống dọc, không nhất thiết phải theo đơn vị hành chính, cũng như cơ quan Tòa án, VKS được thiết kế theo khu vực.
 - Cần có cơ chế phát triển các tổ chức dịch vụ pháp lý, tư vấn pháp lý miễn phí cho người nghèo, hỗ trợ cho nhân dân khi tham gia hoạt động tố tụng, tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình hành nghề luật sư, nâng cao vị thế, vai trò của luật sư trong nước cũng như ngoài nước.
 - Tăng cường phát triển đội ngũ giám định tư pháp, đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp nhằm mang lại các dịch vụ pháp lý tốt nhất cho nhân dân.
 - Nghiên cứu, xem xét cho phép thành lập các tổ chức thám tử tư để giúp những người tham gia tố tụng thu thập nguồn chứng cứ để nâng cao chất lượng tranh tụng .
Tăng cường công việc đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ, kỹ năng, đạo đức của những người THTT, của những người tham gia tố tụng. Đổi mới quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp. Xây dựng cơ chế thu hút, sử dụng và có chính sách đãi ngộ người tài, đồng thời có cơ chế sàng lọc, loại bỏ cán bộ yếu kém, không đáp ứng được công việc được giao.
Xây dựng quy chế về đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp và kỷ cương công vụ của những người THTT. Xây dựng cơ chế kiểm tra, thanh tra xử lý các trường hợp VPPL một cách kịp thời.
Quan tâm tích cực cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, trụ sở làm việc cho các cơ quan THTT, phương tiện làm việc, công cụ cho những người THTT và các thiết chế bổ trợ tư pháp.
Tăng cường thường xuyên công việc tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật để nâng cao văn hóa pháp lý trong tố tụng, nhất là văn hóa ứng xử pháp đình./.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22(254), tháng 11/2013)


Thống kê truy cập

32955975

Tổng truy cập