Tạo lập nguồn pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế

01/12/2013

PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

Đại học Luật Hà Nội

NGUYỄN MINH ĐỨC

Trong khoa học pháp lý, nguồn pháp luật được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau. Ở phương diện xây dựng pháp luật, nguồn pháp luật là những gì từ đó hình thành nên pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền dựa vào đó để tạo ra pháp luật. Ở phương diện thực hiện và áp dụng pháp luật, nguồn pháp luật là nơi chứa đựng, nơi cung cấp các quy định pháp luật, nói cách khác, các quy định pháp luật đó được lấy từ nguồn nào để giải quyết các vụ việc pháp lý thực tiễn xảy ra trong đời sống xã hội. Khái quát lại thì nguồn pháp luật được hiểu là tất cả các căn cứ được sử dụng làm cơ sở để xây dựng, giải thích, thực hiện và áp dụng pháp luật. Mỗi nhà nước có quan niệm và sử dụng các loại nguồn pháp luật khác nhau. Việc nhà nước ghi nhận nguồn pháp luật nào và mức độ ưu tiên áp dụng của từng loại nguồn pháp luật là một trong các tiêu chí giúp phân biệt các dòng họ (hệ thống) pháp luật với nhau.
2_94.jpg
Ảnh minh họa: nguồn 
Hiện nay, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và thực hiện hội nhập quốc tế (HNQT) sâu rộng hơn trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Bối cảnh đó đòi hỏi hệ thống pháp luật phải được hoàn thiện nhằm kịp thời điều chỉnh, giải quyết tốt hơn các quan hệ xã hội, đặc biệt là các quan hệ mới phát sinh, trong đó vấn đề tạo lập nguồn của pháp luật có vai trò hết sức quan trọng.
Chúng tôi cho rằng, để tạo lập nguồn pháp luật Việt Nam trong điều kiện xây dựng NNPQ và HNQT cần tiến hành theo những định hướng cơ bản sau: củng cố, hoàn thiện những loại nguồn pháp luật hiện có, nhất là đối với văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); làm rõ mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật, thứ tự ưu tiên áp dụng chúng để bảo đảm tính thống nhất, chính xác giữa các chủ thể trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời đẩy mạnh hoạt động rà soát, hệ thống hóa pháp luật nhằm tạo ra nhiều bộ luật, bộ pháp điển phục vụ các hoạt động pháp luật một cách nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả hơn.
1. Củng cố, hoàn thiện nguồn pháp luật đi đôi với nghiên cứu phát triển nguồn pháp luật
1.1. Đối với văn bản quy phạm pháp luật
Hiện nay và trong tương lai, nguồn pháp luật chủ đạo của hệ thống pháp luật Việt Nam chắc chắn vẫn là VBQPPL. Vấn đề đặt ra là pháp luật thành văn nên được xây dựng và áp dụng như thế nào để phù hợp với bối cảnh xây dựng NNPQ và HNQT. Để hoàn thiện nguồn pháp luật thành văn tại Việt Nam trong điều kiện mới, cần phải:
Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa Luật Ban hành VBQPPL 
Hiện nay tồn tại hai văn bản là Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và Luật ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2004. Tuy vậy, các luật nói trên còn có các quy định chưa thật sự phù hợp đã làm cho hoạt động thực tiễn ban hành VBQPPL gặp nhiều khó khăn. Thiết nghĩ, luật ban hành VBQPPL chỉ nên quy định một cách khái quát, không nên nêu một cách quá cụ thể, cứng nhắc dẫn đến khó thực hiện trong thực tế. Luật ban hành VBQPPL chỉ nên quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức ban hành của một số VBQPPL chứ không phải đối với tất cả các VBQPPL. Với những VBQPPL không thể và không cần quy định trong luật thì nên có sự hướng dẫn để các chủ thể có thẩm quyền linh hoạt hơn trong quá trình ban hành. Điều quan trọng nhất khi ban hành VBQPPL là chúng phải được ban hành hợp hiến và hợp pháp, đúng thẩm quyền cả về nội dung của văn bản và hình thức văn bản, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, điều chỉnh một cách hiệu quả nhất các quan hệ xã hội vì lợi ích của các tổ chức và cá nhân. Trong luật, ngoài việc quy định về giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì nên có quy định chung về việc giải thích các VBQPPL khác để đảm bảo cho công tác này được tiến hành thống nhất và hiệu quả hơn. Nghiên cứu quy định trách nhiệm pháp lý vừa theo nghĩa tích cực vừa theo nghĩa tiêu cực của các chủ thể tham gia quá trình ban hành VBQPPL để nâng cao hơn trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình tham gia ban hành VBQPPL.
Thứ hai, thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định của luật ban hành VBQPPL và các văn bản khác có liên quan
Từ khi có các luật ban hành VBQPPL, công tác xây dựng văn bản pháp luật có nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc các văn bản được ban hành phù hợp với thẩm quyền hơn, tính hợp lý và hợp pháp được cải thiện. Tuy vậy, nhiều quy định trong các luật ban hành VBQPPL vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc trên thực tế. Chẳng hạn, vẫn có nhiều văn bản được ban hành mà không thực hiện khâu đánh giá tác động văn bản, không tham vấn ý kiến góp ý của xã hội, hoặc không được thẩm tra đầy đủ. Một số văn bản vẫn được ban hành không đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý, nhiều văn bản không khả thi, mang tính chủ quan của cơ quan ban hành, chứ không xuất phát từ thực tế. Như vậy, muốn hoàn thiện nguồn luật thành văn trước hết phải đảm bảo áp dụng đầy đủ và nghiêm túc các quy định ban hành VBQPPL theo các luật ban hành VBQPPL.
Thứ ba, xác định rõ thẩm quyền ban hành VBQPPL về mặt nội dung
Luật Ban hành VBQPPL đã quy định chặt chẽ hơn để tránh sự sai lầm về hình thức văn bản pháp luật, tuy vậy, trên thực tế nhiều VBQPPL được ban hành vẫn không phù hợp về mặt nội dung. Ví dụ, các quy định về kinh doanh có điều kiện phải được ban hành từ cấp Chính phủ trở lên, nhưng đôi khi vẫn có những quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh được ban hành ở cấp thông tư của các Bộ, một số địa phương vẫn ban hành văn bản ngăn cản quyền tự do kinh doanh của công dân. Do vậy, cần quy định chặt chẽ hơn các nội dung ban hành VBQPPL của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
Thứ tư, đổi mới quy trình xây dựng văn bản
Quy trình xây dựng văn bản hiện nay vẫn kết hợp khâu nghiên cứu chính sách và khâu soạn thảo văn bản. Khâu nghiên cứu chính sách là việc đưa ra các sáng kiến làm luật, xác định vấn đề xã hội và đưa ra giải pháp pháp lý điều chỉnh phải do các Bộ, ngành, Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội và Quốc hội đảm nhiệm, còn khâu soạn thảo là việc biến các giải pháp pháp lý đó thành câu chữ trong văn bản sẽ do Ban soạn thảo đảm nhiệm. Khâu soạn thảo mang nhiều tính kỹ thuật, bao gồm việc xác định căn cứ pháp lý ban hành văn bản, sử dụng từ ngữ, khái niệm pháp lý một cách thống nhất. Vì thế, nên tách hai khâu ra và chuyên môn hóa đội ngũ soạn thảo (Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chính) sẽ phần nào giúp tránh được sự không thống nhất, chồng chéo giữa các văn bản. Hơn nữa, các văn bản sẽ có thiết kế, trình bày giống nhau từ việc đánh chỉ mục, sắp xếp điều luật, cho đến sự thống nhất từ ngữ… sẽ tạo được sự thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật.
Thứ năm, lưu trữ và công khai toàn bộ các tài liệu, các báo cáo, các ý kiến đóng góp, tranh luận, dự thảo trong quá trình soạn thảo pháp luật thành văn
Một trong những nhược điểm lớn nhất của văn bản pháp luật thành văn chính là sự cản trở về mặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản pháp luật thường mang tính khái quát hóa cao, chính điều này làm cho nội dung của văn bản quy phạm pháp luật có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Đương nhiên, nguyên nhân của vấn đề này là do người soạn thảo văn bản đã không sử dụng ngôn từ một cách chính xác và phù hợp. Nhằm khắc phục thực trạng này, việc lưu trữ và công khai toàn bộ các tài liệu, báo cáo, ý kiến, tranh luận, các dự thảo trong quá trình soạn thảo sẽ giúp hạn chế việc hiểu không đúng ý chí của người soạn thảo. Trước mắt, các tài liệu như thế cần phải được lưu trữ và công khai trong quá trình soạn thảo pháp luật thành văn của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
1.2. Đối với nguồn tập quán
Những năm gần đây, nhiều tập quán, truyền thống văn hoá tốt đẹp đã được khôi phục, đặc biệt là chủ trương xây dựng hương ước mới càng làm cho phong tục tập quán có điều kiện phát triển và phát huy vai trò trong đời sống xã hội. Có thể nói, tập quán đã, đang và sẽ còn tiếp tục thể hiện vai trò tích cực và những giá trị xã hội của mình trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là ở các vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, khi mà pháp luật thành văn chưa phát huy được đầy đủ vai trò, tác dụng thì phần lớn các quan hệ xã hội vẫn chủ yếu được điều chỉnh bởi tập quán... Để nguồn pháp luật tập quán phát huy được vai trò của mình hơn nữa, cần phải:
Thứ nhất, sưu tập, tổng hợp, công bố các tập quán
Nhà nước nên tiến hành sưu tầm, tập hợp hoá các tập quán được xem là quan trọng, có giá trị đang tồn tại trên khắp mọi miền của đất nước. Trên cơ sở đó chọn lọc để giữ gìn, phát huy những tập quán tốt đẹp, loại trừ những tập quán có hại, đồng thời tác động để hình thành những tập quán mới phù hợp với đời sống, bản sắc văn hoá của dân tộc trong thời đại mới. Việc sưu tầm các tập quán có thể được tiến hành ở nhiều quy mô và phạm vi khác nhau. Việc tập hợp hoá tập quán sẽ giúp cho các cơ quan xét xử thuận lợi hơn mỗi khi cần phải áp dụng tập quán để giải quyết một vụ việc nào đó. Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý là việc sưu tầm, tập hợp các tập quán không được làm giảm vai trò của các tập quán không được sưu tầm. Bởi lẽ, các tập quán cũng thường xuyên phát triển và thay đổi trong cuộc sống.
 Thứ hai, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về điều kiện, nguyên tắc áp dụng tập quán
 Hiện nay, việc xác định như thế nào là một tập quán dùng để áp dụng giải quyết vụ việc vẫn chưa được làm sáng tỏ. Vì không có hướng dẫn cụ thể, nhiều trường hợp, thẩm phán ngại áp dụng tập quán khi giải quyết vụ việc mặc dù có điều kiện làm việc đó. Do vậy, Nhà nước nên có hướng dẫn cụ thể hơn đối với việc áp dụng tập quán, theo đó, văn bản quy phạm pháp luật phải được ưu tiên hơn so với tập quán trong việc giải quyết các vụ việc. Chỉ khi nào không có luật thành văn hoặc luật thành văn không phù hợp mà tập quán phù hợp hơn với trường hợp cụ thể đó thì mới được áp dụng tập quán.
1.3. Đối với nguồn án lệ
Thứ nhất, nâng cao hiểu biết về chức năng vai trò của án lệ trong văn hóa pháp lý
Pháp luật Việt Nam ngày càng hội nhập, hài hòa hóa với pháp luật các nước khác, nhiều quy định của pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế đã được tiếp biến, cấy ghép vào hệ thống pháp luật Việt Nam, đòi hỏi việc tiếp nhận nguồn pháp luật án lệ cũng được đặt ra. Để có thể tiếp nhận được án lệ với tư cách là nguồn pháp luật chính thức đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vấn đề này, nhất là trong giới luật học và những người làm chính sách. Sự thay đổi nhận thức này có thể được thực hiện thông qua con đường đào tạo luật tại các cơ sở đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nghề. Quá trình đào tạo này cần phải chú trọng sử dụng các án lệ để cung cấp kiến thức, thay vì việc phụ thuộc hoàn toàn vào các văn bản pháp luật thành văn. Các giáo trình luật của Việt Nam nên được bổ sung thêm việc giới thiệu và phân tích các vụ án, án lệ đã có. Chỉ khi nào các luật sư, thẩm phán và một số chủ thể khác có thói quen sử dụng án lệ khi giải quyết vụ việc thì lúc đó án lệ mới có vị thế vững chắc trong các nguồn luật của Việt Nam.
 Thứ hai, xác định giá trị bắt buộc/tham khảo của các án lệ
Theo chúng tôi, trong bối cảnh hiện nay, nếu áp dụng án lệ cũng chỉ nên áp dụng ở mức độ tham khảo, chứ không nên bắt buộc, tức là án lệ chỉ được đặt ở vị trí nguồn bổ sung. Án lệ đứng sau VBQPPL và không thể thay thế VBQPPL. Điều này có nghĩa là cơ sở để giải quyết vụ việc vẫn là các VBQPPL chứ không phải là án lệ. Án lệ không thể đứng độc lập mà buộc phải được dẫn giải từ các quy định pháp luật thành văn. Điều này sẽ không làm thay đổi cấu trúc của hệ thống pháp luật nước ta. Việc Tòa án tham khảo các án lệ sẽ làm tăng tính thuyết phục của bản án và làm tăng sự thống nhất trong khâu áp dụng pháp luật. Từ đó nâng cao chất lượng và có thể làm giảm thời gian xét xử của Tòa án.
 Thứ ba, xác định những bản án nào có giá trị tiền lệ
Do không phải mọi bản án đều có thể được viện dẫn như những tiền lệ, nên việc xác định bản án nào có giá trị tiền lệ để tham khảo là rất quan trọng. Thời gian đầu, án lệ chỉ nên là các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và Quyết định giám đốc thẩm của các Tòa án chuyên trách TANDTC. TANDTC có thẩm quyền ban hành án lệ và giám sát việc áp dụng án lệ của các tòa án cấp dưới. Mặc dù vậy, việc áp dụng án lệ không nên quá cứng nhắc, TANDTC có thể bãi bỏ hoặc thay đổi các án lệ bằng cách ban hành một án lệ mới khi các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của đất nước có sự thay đổi. Để thực hiện điều này, cần bổ sung thêm chức năng “ban hành án lệ” của TANDTC trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Về lâu dài, khi mà thói quen sử dụng án lệ của thẩm phán và các chủ thể khác trong xã hội tăng lên, đồng thời năng lực của Tòa án các cấp được cải thiện thì số lượng và đối tượng của các bản án được công nhận tính tiền lệ có thể tăng lên.
Thứ tư, lưu trữ, đánh chỉ mục và công khai các bản án của Tòa án các cấp
 Công việc này là một trong những tiền đề quan trọng nhất nhằm tạo lập nguồn án lệ tại Việt Nam. Việc lưu trữ và công bố án lệ nên được thực hiện theo hai phương thức, gồm xuất bản tuyển tập án lệ và đăng tải trên mạng Internet. Ngoài việc công khai bản án, Tòa án cũng nên thống nhất phương pháp đánh chỉ mục và đặt tên cho bản án sao cho dễ nhớ và thuận tiện cho việc tra cứu. Bên cạnh đó, công tác hệ thống hóa, biên tập các bản án cũng rất quan trọng. Khi có nhiều bản án cùng giải quyết một vấn đề pháp lý hoặc các vấn đề pháp lý có liên quan đến nhau thì nên được tập hợp lại thành từng nhóm. Chẳng hạn, các bản án giải thích Điều 31 của Bộ luật Dân sự 2005, cao hơn nữa là việc phân tích và bình luận các án lệ này.
Việc lưu trữ, đánh chỉ mục, công bố, biên tập và bình luận các bản án có rất nhiều ích lợi: (i) việc này sẽ giúp các thẩm phán tiếp cận, tra cứu án lệ khi thực hiện công việc của mình; (ii), công tác này sẽ giúp mở rộng phạm vi ảnh hưởng của các án lệ, không chỉ trong các hoạt động liên quan đến tòa án mà cả các hoạt động khác như luật sư tư vấn, tranh tụng, cán bộ nhà nước giải quyết vụ việc hành chính, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giảng dạy, nghiên cứu pháp luật; (iii), công tác này là một tiền đề giúp pháp điển hóa các án lệ và xây dựng, bổ sung các VBQPPL.
Thứ năm, hướng dẫn hoàn thiện cơ chế áp dụng án lệ của Tòa án
Khi thẩm phán xét xử một vụ việc và nhận thấy vụ việc đó có tính tương tự so với một án lệ có sẵn thì thẩm phán có trách nhiệm áp dụng án lệ đó. Nếu một bên đương sự viện dẫn một án lệ thì tòa án có nghĩa vụ xem xét tính tương tự của án lệ đó so với vụ việc đang giải quyết. Nếu thẩm phán không áp dụng án lệ đó thì phải nêu lý do vì sao áp dụng án lệ trong vụ việc đang giải quyết là không phù hợp.
 Thứ sáu, thay đổi lại cách viết bản án của Tòa án
Cách viết bản án của Tòa án cần phải được cải tiến theo hướng làm rõ hơn căn cứ, lập luận để ra quyết định; bổ sung thêm việc viện dẫn án lệ có liên quan. Riêng đối với bản án, quyết định của TANDTC cần được viết rõ hơn khi phân tích sai lầm của tòa án cấp dưới; bao gồm cả ý kiến phản bác hoặc các lập luận không thống nhất.
Hiện nay, các bản án đều được viết khá sơ sài, thẩm phán chỉ nhận định sự kiện thực tế, đưa điều luật áp dụng và đưa ra kết luận pháp lý. Một phần rất quan trọng trong cơ chế áp dụng án lệ là việc tòa án giải thích điều luật mà tòa án đã áp dụng, rồi gắn kết cách giải thích đó với vụ việc đang giải quyết. Đây chính là những nội dung quan trọng cần phải được đưa vào bản án. Bởi lẽ, khi áp dụng một bản án đã có như một án lệ, phần lập luận này sẽ là trung tâm của vấn đề, để xem bản án đó có áp dụng được không và nên được áp dụng như thế nào. Nếu phần này không được viết vào bản án, rất khó cho việc vận dụng bản án đó sau này.
1.4. Đối với nguồn pháp luật quốc tế
Việt Nam đã tham gia vào việc tạo lập pháp luật quốc tế và pháp luật quốc tế cũng có ảnh hưởng nhất định đến quá trình áp dụng pháp luật tại Việt Nam. Pháp luật quốc tế được coi là một dạng nguồn cho hệ thống pháp luật Việt Nam. Do đó, việc xác định hiệu lực áp dụng của pháp luật quốc tế so với các nguồn khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam cần phải được làm rõ. Về cơ bản thì pháp luật quốc tế có giá trị cao hơn luật nội địa của Việt Nam, trừ Hiến pháp. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là những nghĩa vụ quốc tế nào thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, nghĩa vụ quốc tế nào thuộc thẩm quyền của các cơ quan khác của Nhà nước cần phải được quy định chặt chẽ. Bởi lẽ, điều ước quốc tế có hiệu lực cao hơn luật của Quốc hội, nhưng văn bản của các cơ quan khác không thể có hiệu lực cao hơn luật của Quốc hội. Việc tạo lập nguồn pháp luật quốc tế, ký kết, gia nhập, phê chuẩn, phê duyệt các điều ước quốc tế cần phải được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Khi các cơ quan nhà nước ban hành VBQPPL thì không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế, và không chỉ điều ước quốc tế mà còn cả tập quán quốc tế.
1.5. Đối với nguồn pháp luật nước ngoài
Trong quá trình xây dựng NNPQ và HNQT, Việt Nam sẽ phải đối mặt với việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Trong một số trường hợp, khi áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ gặp phải vấn đề về hiệu lực của nguồn luật. Điều này sẽ gây ra nhiều khó khăn cho người có thẩm quyền giải quyết vụ việc, đòi hỏi họ phải biết chính xác khi nào phải áp dụng luật nước ngoài và áp dụng chúng như thế nào. Ngoài trở ngại về ngôn ngữ, các trở ngại khác về sự khác biệt trong hệ thống pháp luật cũng sẽ gây nhiều khó khăn cho các cơ quan hữu quan của Việt Nam, nhất là đối với việc áp dụng pháp luật của các quốc gia thuộc hệ thống Common Law. Điều này dẫn đến việc các thẩm phán sẽ phải tự mình nghiên cứu pháp luật nước ngoài rồi đưa phán quyết hoặc tham khảo ý kiến của các luật gia nước ngoài.
1.6. Đối với nguồn là các tư tưởng, học thuyết pháp lý
Hiện nay, Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện bằng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau, trong đó đường lối, chính sách là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất. Do vậy, đường lối, chủ trương của Đảng, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là nguồn pháp luật quan trọng. Tuy nhiên, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng, quan điểm pháp lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ nên coi là nguồn (căn cứ) để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật hoặc định hướng đường lối để giải quyết vấn đề. Chính vì vậy, cần hạn chế tới mức thấp nhất việc áp dụng trực tiếp loại nguồn này trong các hoạt động pháp lý cụ thể.
Ngoài ra, cần nghiên cứu các quan điểm luật học của các chuyên gia và xem như một loại nguồn.Các quan điểm luật học của các chuyên gia cũng có thể được coi là một nguồn pháp luật phục vụ công tác giải thích pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay, về lý luận và thực tiễn đều không công nhận nguồn này. Tuy nhiên, trên thế giới, các quốc gia công nhận nguồn này không phải là hiếm, đặc biệt ở những nước theo hệ thống pháp luật Common Law. Tại Hoa Kỳ, người ta gọi chúng là restatement, thường được thể hiện dưới dạng tập hợp các quan điểm luật học của nhiều chuyên gia pháp lý, luật sư thẩm phán về cùng một hoặc một nhóm vấn đề có liên quan đến nhau. Nguồn này không chính thức, không có giá trị ràng buộc nhưng lại có giá trị thuyết phục rất cao. Khi viết các bản án, thẩm phán có thể trích dẫn các restatement đó như một nguồn luật độc lập. Hiện tượng này cũng đã xuất hiện tại Việt Nam, nhưng không được coi là nguồn luật, chẳng hạn, cuốn sách Bình luật khoa học Bộ luật Hình sự của các chuyên gia pháp lý. Theo các nhà lý luận của Việt Nam, điều này chỉ đơn giản là việc giải thích pháp luật một cách không chính thức của các nhà khoa học. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của các giải thích không chính thức này đến thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án vẫn chưa được nghiên cứu tường tận. Trong thời gian tới, nên coi đây là một nguồn bổ sung, giúp thẩm phán có định hướng khi cần áp dụng.
2. Làm rõ mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật
Việc làm rõ mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật, thứ tự ưu tiên áp dụng chúng là để bảo đảm tính thống nhất, chính xác giữa các chủ thể trong việc áp dụng pháp luật. Việc đa dạng hóa các nguồn luật dẫn đến tình trạng cùng một quan hệ xã hội nhưng có thể có nhiều quy định pháp luật cùng điều chỉnh và việc áp dụng chúng có thể dẫn đến những hệ quả pháp lý khác nhau. Do vậy, nếu có hai hay nhiều quy phạm pháp luật của cùng một loại nguồn hoặc thuộc các loại nguồn khác nhau có thể áp dụng để giải quyết một vấn đề thực tiễn và cho ra những hệ quả pháp lý khác nhau, thì cần phải xây dựng một số quy tắc nhằm xác định quy phạm nào nên được ưu tiên áp dụng.
Nếu các quy phạm nằm trong các VBQPPL khác nhau có mâu thuẫn, nguyên tắc xử lý mâu thuẫn đã được quy định trong Luật BHVBQPPL. Tuy vậy, vẫn có trường hợp Chính phủ ban hành hai văn bản trong cùng một ngày nhưng lại có quy định khác nhau về cùng một vấn đề nên nguyên tắc áp dụng ưu tiên chưa được dự liệu.
 Khi có sự mâu thuẫn giữa các loại nguồn luật khác nhau thì theo xu hướng chung của thế giới, pháp luật thành văn thường được ưu tiên áp dụng hơn so với các nguồn khác như tiền lệ, tập quán. Tuy nhiên, việc giải quyết triệt để mối quan hệ về hiệu lực áp dụng của pháp luật thành văn và các nguồn khác phức tạp hơn rất nhiều. Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ, nếu có một quy định trong luật của Quốc hội mâu thuẫn với một án lệ có từ trước đó, không phải lúc nào quy định trong luật cũng được ưu tiên áp dụng. Trong trường hợp đó, Tòa án Hoa Kỳ chỉ áp dụng luật thành văn nếu trong văn bản đó, hoặc quá trình ban hành văn bản đó thể hiện rõ việc Quốc hội muốn đưa quy định này nhằm bãi bỏ án lệ đó.
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều văn bản của các cơ quan nhà nước không được thể hiện dưới hình thức VBQPPL nhưng vẫn được sử dụng như nguồn của pháp luật. Chẳng hạn, khi cơ quan thuế không xác định được chính xác các loại hàng hóa chịu thuế, họ thường gửi công văn lên các cơ quan cấp cao hơn như Tổng cục Thuế để xin ý kiến. Công văn trả lời của Tổng cục Thuế lúc này có giá trị giải thích rõ hơn, do vậy đây được coi là một nguồn giải thích luật. Mặc dù công văn này chỉ giải quyết một vụ việc cụ thể, tức là về mặt lý thuyết, công văn này chỉ có giá trị cho lần đó mà thôi, các lần sau tương tự sẽ vẫn có thể được giải quyết khác đi, hoặc sẽ cần phải có công văn khác để áp dụng cho vụ việc sau. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nếu xuất hiện tình huống sau này tương tự, cơ quan cấp dưới tự khắc giải quyết tương tự chứ không bao giờ gửi thư xin ý kiến lần thứ hai. Điều này khiến cho các công văn trả lời kia lại có tính quy phạm. Thực tiễn này là hợp lý, bởi việc gửi thư lần thứ hai là không cần thiết. Như vậy, một văn bản được ban hành dưới hình thức văn bản cá biệt, nhưng sau đó được sử dụng như một văn bản quy phạm. Những văn bản kiểu này xuất hiện rất nhiều trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhiều học giả cũng đặt câu hỏi về giá trị pháp lý của các văn bản này. Đây là vấn đề cần phải giải quyết về mặt lý luận, từ đó tạo cơ sở cho việc xây dựng nguồn của pháp luật một cách hiệu quả hơn.
Cần lưu ý rằng, nguồn luật chỉ là nơi để chỉ ra các căn cứ (quy định pháp luật), do đó, có thể xảy ra trường hợp nhiều nguồn luật khác nhau, nhưng chứa đựng cùng một quy phạm. Cũng có trường hợp các nguồn luật khác nhau chứa đựng những quy phạm trái ngược nhau. Thậm chí cùng một nguồn luật cũng có thể xuất hiện nhiều quy phạm trái ngược. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp giải quyết vụ việc thực tiễn, có thể áp dụng nhiều nguồn luật cùng một lúc.
3. Đẩy mạnh rà soát, hệ thống hóa pháp luật
Để có được một hệ thống pháp luật với các nguồn luật phù hợp có tính khả thi và đạt hiệu quả cao, cần phải thường xuyên tiến hành rà soát hệ thống pháp luật hiện hành theo từng lĩnh vực, kèm theo đánh giá, tổng kết để đưa ra những định hướng cho việc hoàn thiện. Kịp thời phát hiện những điểm mâu thuẫn, chồng chéo và những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật để khắc phục làm cho hệ thống pháp luật trở nên hoàn thiện hơn. Nếu có cơ sở cho rằng, một quy phạm hay một VBQPPL nào đó không đáp ứng được những điều kiện cần thiết để có hiệu quả thì phải xem xét và khắc phục ngay, kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành những quy phạm, những văn bản pháp luật hoặc tạo lập những nguồn pháp luật mới có chất lượng, phù hợp với cơ chế thực hiện, áp dụng pháp luật hiện có.
Các quy định pháp luật ngày càng nhiều về số lượng, phong phú, đa dạng về lĩnh vực, phạm vi điều chỉnh, do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành nên công tác hệ thống hoá pháp luật là hết sức cần thiết và quan trọng. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác hệ thống hoá pháp luật, đặc biệt chú trọng tới pháp điển hoá pháp luật để tạo ra nhiều bộ luật, bộ pháp điển có tính thống nhất và giá trị pháp lý cao. Hoạt động hệ thống hoá pháp luật cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhìn nhận một cách tổng quát đối với hệ thống pháp luật hiện hành nói chung, pháp luật trong từng lĩnh vực nói riêng, phát hiện những điểm không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo và những lỗ hổng của hệ thống pháp luật để từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống nhà nước và xã hội. Thực hiện tốt công tác hệ thống hoá pháp luật không những làm cho hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện mà còn tạo điều kiện để việc thực hiện và áp dụng pháp luật được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả hơn. Hoạt động hệ thống hoá pháp luật cũng phục vụ trực tiếp cho việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước và nhân dân, tạo điều kiện để các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật nghiêm minh, dễ dàng và chính xác. Đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước thì hệ thống hoá pháp luật càng quan trọng, bởi sự sắp xếp có trình tự và có tính hệ thống những quy định pháp luật cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dễ dàng tìm kiếm những quy định cần thiết, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của chúng để áp dụng một cách đúng đắn, chính xác, đạt hiệu quả trong các hoạt động nhà nước. Ngoài ra, hoạt động hệ thống hoá pháp luật còn tạo điều kiện cho công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục pháp luật tốt hơn.
Công tác hệ thống hóa quy phạm pháp luật cần được tiến hành cẩn trọng, tỉ mỉ, khoa học, đòi hỏi những người làm công tác này không chỉ đơn thuần dựa trên những kiến thức pháp lý mà phải sử dụng cả những tri thức kinh tế, xã hội học, tâm lý học... Các tuyển tập luật lệ, các bộ luật, các bộ pháp điển là kết quả của hoạt động hệ thống hóa cần phản ánh được các nhu cầu xã hội, có cơ sở và bao quát được những quan hệ xã hội cần điều chỉnh, không mâu thuẫn với những VBQPPL khác, dễ nhận thức, sử dụng, thực hiện và áp dụng có hiệu quả trong đời sống xã hội.
Tóm lại, nguồn pháp luật Việt Nam hiện tại còn nhiều hạn chế, bất cập cần được khắc phục để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng NNPQ, HNQT. Bối cảnh mới ở Việt Nam đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật, hệ thống nguồn pháp luật Việt Nam phù hợp hơn nhằm phục vụ cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Tuy nhiên, các nguồn pháp luật khác nhau có cách thức tạo lập khác nhau, vì vậy, việc ghi nhận thêm các nguồn pháp luật được áp dụng cũng đồng nghĩa với việc công nhận các chủ thể mới có quyền sáng tạo ra pháp luật./.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số (255), tháng 12/2013)