Một số vấn đề về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

07/11/2021

VÕ THỊ ÁNH TRÚC

Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang,

THS. PHẠM THỊ THÚY

Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.

Tóm tắt: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, được quy định tại Điều 192, Mục 1, Chương XVIII của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015). Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thuộc nhóm tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, được quy định tại Điều 226, Mục 3, Chương XVIII của BLHS năm 2015. Mặc dù quy định của BLHS năm 2015 có nhiều điểm mới tiến bộ và phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLHS năm 2015 cho thấy vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về 02 tội danh này.
Từ khóa: Sản xuất, buôn bán hàng giả; xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; Bộ luật hình sự.
Abstract: The crime of manufacturing and trading counterfeit goods belong to the category of crimes infringing upon economic management order in production, business and commerce, which is specified in Article 192, Section 1, Chapter XVIII of the Criminal Code of 2015 amended in 2017 (the Criminal Code of 2015). The crime of infringing upon industrial property rights belongs to another category of crimes infringing upon the economic management order in Article 226, Section 3, Chapter XVIII of the Criminal Code of. Although the provisions of the Criminal Code of 2015 have many new and progressive provisions and are consistent with practical social life. However, the practical enforcement of the Criminal Code of 2015 have appeared a number of shortcomings in the application of the law on these types of crimes
Keywords: Manufacturing and trading of counterfeit goods; infringement of industrial property rights; the Criminal Code.
 quyen-so-huu-cong-nghiep.jpg
 
1. Khái quát chung về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, được quy định tại Điều 192, Mục 1, Chương XVIII của BLHS năm 2015. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thuộc nhóm tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, được quy định tại Điều 226, Mục 3, Chương XVIII của BLHS năm 2015. Như vậy, khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đều là trật tự quản lý kinh tế. Tuy nhiên, tội sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm đến khách thể trực tiếp là trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp xâm phạm đến khách thể trực tiếp là trật tự quản lý kinh tế đối với quyền sở hữu trí tuệ.
Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả, Điều 192 BLHS năm 2015 không miêu tả cụ thể các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm mà chỉ quy định “người nào sản xuất, buôn bán hàng giả” thuộc một trong các trường hợp cấu thành tội phạm tương ứng với 03 khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội và 05 khung hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Tuy nhiên, cần lưu ý, nếu hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi; tem giả, vé giả; tiền giả thì không truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 192 mà tùy trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 193, 194, 195, 202 hoặc 207 của BLHS năm 2015.
Đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, hành vi khách quan của người phạm tội này là hành vi “cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý”. Tuy nhiên, chỉ những hành vi cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện với “quy mô thương mại” hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng trở lên mới đủ yếu tố về định lượng để cấu thành tội phạm này.
Các dấu hiệu về mặt chủ thể và mặt chủ quan của 02 tội phạm này tương đối giống nhau. Theo đó, chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đều là chủ thể thường – tức là bất kỳ người nào thỏa mãn các điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm. Về mặt chủ quan, tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đều đươc thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra[1].
2. Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
2.1. Quy định của pháp luật chưa giải thích cụ thể về một số tình tiết trong cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Nghiên cứu cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, các tác giả nhận thấy, BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa giải thích cụ thể như thế nào là “hàng giả”, “quyền sở hữu công nghiệp” cũng như hành vi “sản xuất, buôn bán hàng giả” và hành vi “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”. Bên cạnh đó, cũng không có quy định nào về việc dẫn chiếu đến các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành có liên quan để áp dụng khi xử lý về hình sự hành vi vi phạm pháp luật nên thực tiễn áp dụng pháp luật của từng cơ quan, từng nơi, từng lúc còn chưa thống nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ghi nhận 02 cách hiểu khác nhau sau đây:
- Cách hiểu thứ nhất: Dẫn chiếu quy định tương tự của pháp luật chuyên ngành.
Theo đó, các khái niệm “hàng giả” và hành vi “sản xuất, buôn bán hàng giả” được giải thích căn cứ vào quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Nghị định số 98). Tuy nhiên, Nghị định này không nêu khái niệm về “hàng giả” mà chỉ liệt kê 06 nhóm “hàng giả”[2]. Điều này dẫn đến quy định về “hàng giả” không bao quát hết tất cả các trường hợp có thể phát sinh trên thực tế. Bên cạnh đó, văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành được dẫn chiếu thường có tính ổn định không cao. Ví dụ, trước đây quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 (Nghị định số 185), nay là Nghị định số 98. So sánh 02 văn bản này, có thể nhận thấy tuy cùng bản chất là “hàng giả” nhưng “hàng giả” quy định tại Nghị định số 98 không thống nhất với “hàng giả” quy định tại Nghị định số 185.
Tương tự, khoản 4 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 (Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005) giải thích khái niệm “quyền sở hữu công nghiệp” như sau: “Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh”.Mặc dù điều luật đã nêu khái niệm về “quyền sở hữu công nghiệp” nhưng khi dẫn chiếu để áp dụng vào tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng không hoàn toàn phù hợp. Bởi lẽ, theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: (1) sáng chế, (2) kiểu dáng công nghiệp, (3) thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, (4) nhãn hiệu, (5) tên thương mại, (6) chỉ dẫn địa lý, (7) bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và (8) quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi đó, đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của Điều 226 BLHS năm 2015 lại rất hẹp – chỉ bao gồm 02 (trong tổng số 08) đối tượng là nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý. Điều 226 còn xác định cụ thể hơn đối tượng đó phải là hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 xác định hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (gọi chung là “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu”) là “hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ”. Theo đó, “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu” là “hàng hóa, bao bì của hàng hóa có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý”. Căn cứ vào quy định này thì “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu” lại rất dễ nhầm lẫn với “hàng giả” được liệt kê tại điểm đ khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98 dẫn đến khó khăn trong việc xác định tội danh.
- Cách hiểu thứ hai: Vận dụng khái niệm được giải thích bởi BLHS năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
Theo cách hiểu này, “hàng giả” được phân loại thành “hàng giả về hình thức” – là trường hợp hàng hóa có sự trùng lặp về tên gọi, về nhãn hiệu, kiểu dáng hay về xuất xứ, nguồn gốc, về chỉ dẫn địa lý với loại hàng hóa cùng loại đã có trên thị trường hoặc hàng hóa có tên gọi, kiểu dáng, nhãn hiệu… gần giống dễ gây nhầm lẫn cho khách hàng; “hàng giả về nội dung” – là giả về chất lượng hoặc công dụng, giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng về hình thức thì bao bì, nhãn hiệu… là thật; “hàng giả cả về hình thức và nội dung” – là loại hang hóa vừa mang nhãn hiệu, nguồn gốc xuất xứ… không đúng, vừa không có chất lượng, công dụng hàng hóa hoặc chất lượng, công dụng hàng hóa thấp hơn của loại hàng thật[3]. Hành vi “sản xuất hàng giả” được định nghĩa là hành vi làm ra các loại hàng giả; hành vi “buôn bán hàng giả” được định nghĩa là hành vi bán hàng giả hoặc mua hàng giả để nhằm bán lại kiếm lời bất chính[4]. Cách giải thích này tuy bao quát và ổn định hơn so với Nghị định số 98 nhưng không có giá trị pháp lý nên chỉ được sử dụng để tham khảo trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
Về hành vi “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”, nếu như Điều 171 BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định rõ hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi “chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp”[5] thì BLHS năm 2015 chỉ quy định chung là “cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” mà không giải thích cụ thể như thế nào là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Do đó, có quan điểm cho rằng[6] đó là hành vi “chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp” như quy định tại Điều 171 BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009; quan điểm khác cho rằng[7] đó là các hành vi tương ứng được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành[8].
Ngoài 02 vấn đề nêu trên, thực tiễn tố tụng còn ghi nhận trường hợp không có quy định làm căn cứ để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Đó là quy định về định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. So với BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, BLHS năm 2015 đã bỏ dấu hiệu định lượng “gây hậu quả nghiêm trọng” mà trong thực tiễn rất khó xác định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thay bằng các dấu hiệu định lượng cụ thể như: thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng trở lên. BLHS năm 2015 cũng không quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” mà sửa đổi theo hướng hành vi cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cấu thành tội phạm khi được thực hiện với “quy mô thương mại”. Tuy nhiên, luật vẫn chưa xác định rõ như thế nào là “quy mô thương mại” để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng dễ dàng và thống nhất trong thực tiễn.
Tóm lại, do pháp luật hình sự hiện nay không xác định cụ thể các yếu tố trong cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nên thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tồn tại nhiều quan điểm khác nhau là không thể tránh khỏi. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không lựa chọn dẫn chiếu văn bản pháp luật chuyên ngành để áp dụng thì cũng không có căn cứ pháp lý để cho rằng điều đó là sai.
2.2. Quy định của pháp luật chưa phân định rõ tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, việc xác định tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp rất mong manh và tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm và cách giải quyết khác nhau. Đặc biệt là đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả mà hàng giả là đối tượng quy định tại các điểm đ, g khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98. Ví dụ như một số vụ án sau đây:
Vụ án thứ nhất: K thành lập Công ty P chuyên kinh doanh hàng hóa là quần jean. Quá trình kinh doanh, K mua quần jean giả mạo nhãn hiệu “Levi’s” về bán cho khách hàng. Quần jean nhãn hiệu “Levi’s” có chủ sở hữu là Công ty “L”, trụ sở tại Mỹ có đại diện sở hữu công nghiệp ban đầu tại Việt Nam là Công ty P & Associates, được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn số 129473 ngày 14/7/2009 có hiệu lực đến ngày 23/11/2027, được đăng ký cho các sản phẩm thuộc nhóm 25, trong đó có quần jean và Giấy chứng nhận đăng ký nhãn số 2611 ngày 19/4/1991, có hiệu lực đến ngày 26/01/2021, được đăng ký cho các sản phẩm thuộc nhóm 25, trong đó có quần áo. Bản án số 146/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 của Tòa án nhân dân quận T tuyên bố bị cáo K phạm tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”.
Vụ án thứ hai: T biết chất keo tụ lắng trong nước của Viện Công nghệ hóa học sản xuất và bán trên thị trường có giá rẻ hơn và cũng có công dụng như sản phẩm Chế phẩm tổng hợp xử lý nước ăn uống và sinh hoạt WAT- CLEAN nên đã nảy sinh ý định mua chất keo tụ lắng trong nước của Viện Công nghệ hóa học giả làm sản phẩm xử lý nước hiệu WAT-CLEAN để bán nhằm thu lợi. T lấy mẫu bao bì của sản phẩm Chế phẩm tổng hợp xử lý nước ăn uống và sinh hoạt WAT- CLEAN đặt in theo mẫu. Sau khi có bao bì, T bắt đầu mua chất keo tụ lắng trong nước do Viện công nghệ hóa học sản xuất và bán mang về tự phân chia cho vào bao bì có nhãn WAT-CLEAN đã in sẵn, ép biên kín lại, dán decal và đem bán để thu lợi. Chất keo tụ lắng trong nước mà T mua về để làm giả nhãn hiệu WAT-CLEAN được Viện Công nghệ hóa học công bố tiêu chuẩn TCCS-01-2013/VCNHH, sản phẩm được phép sản xuất và bán công khai trên thị trường, chất này có tác dụng tụ lắng trong nước dùng trong sinh hoạt, không gây độc hại gì cho sức khỏe của con người cũng như không có tác hại đến môi trường. Sản phẩm “Chế phẩm tổng hợp xử lý nước ăn uống và sinh hoạt WATCLEAN” của Trung tâm Nghiên cứu kỹ thuật và quản lý môi trường được Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa số ngày 26/6/2009 đăng ký mẫu nhãn hiệu WAT-CLEAN có hiệu lực đến ngày 04/01/2028. Bản án số 69/2020/HS-ST ngày 04/6/2020 của Tòa án nhân dân quận G tuyên bố bị cáo T phạm tội “Sản xuất hàng giả”.
Vụ án thứ ba: Đ thành lập Công ty M chuyên kinh doanh văn phòng phẩm. Đ thấy mặt hàng bút chữ A nhãn hiệu A và thước kẻ nhãn hiệu K là sản phẩm đang được tiêu thụ nhiều trên thị trường, nên đã nảy sinh ý định sản xuất các mặt hàng giả nhãn hiệu này mang tiêu thụ kiếm lời. Đ đã mua các sản phẩm bút chữ A nhãn hiệu A và thước kẻ nhãn hiệu K chính hãng rồi thuê đúc các sản phẩm bút và thước nêu trên theo đúng mẫu của nhãn hiệu chính hãng. Sau đó, Đ thuê in các mẫu chữ A và K lên các sản phẩm đã đúc nêu trên sao cho giống với các sản phẩm chính hãng. Ngoài ra, Đ còn thuê đóng gói, dán mác, tem mã vạch, đóng cốc, thùng catton... để có sản phẩm hoàn chỉnh. Theo Văn bản số 6210/SHTT-TTKN ngày 22/6/2018 của Cục Sở hữu trí tuệ Bộ Khoa học và công nghệ xác định: Công ty TNHH T là chủ sở hữu và được độc quyền sử dụng các loại sản phẩm bút chữ A nhãn hiệu A và thước kẻ nhãn hiệu K. Bản án số 09/2019/HS-ST ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh B tuyên bố bị cáo Đ phạm tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”.
Trong 03 vụ án nêu trên, có thể nhận thấy, các bị cáo đều thực hiện những hành vi tương tự nhau là sản xuất, buôn bán các loại hàng hóa giả mạo nhãn hiệu của những nhãn hiệu nổi tiếng đối với mặt hàng đó. Tuy nhiên, có Tòa án xác định là hành vi phạm tội sản xuất hàng giả theo quy định tại Điều 192 BLHS năm 2015, có Tòa án lại xác định là hành vi phạm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo quy định tại Điều 226 BLHS năm 2015. Nguyên nhân dẫn đến sự thiếu thống nhất trên là do có sự trùng lắp hoặc tương đồng về hành vi phạm tội nên dẫn đến sự nhầm lẫn, khó phân biệt khi định tội danh. Đơn cử như hành vi buôn bán hàng giả mà hàng giả là “hàng hóa giả mạo bao bì hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác” đang được bảo hộ thì đồng thời cũng là hành vi “sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó” trong nhóm các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
2.3. Quy định của pháp luật chưa phân định rõ tình tiết định khung “buôn bán qua biên giới” của tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tình tiết định tội của tội buôn lậu
Cấu thành tội phạm của tội buôn lậu quy định tại khoản 1 Điều 188 BLHS năm 2015 về mặt khách quan là hành vi “buôn bán qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại trái pháp luật hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý”. Trong khi đó, điểm l khoản 2 Điều 192 BLHS năm 2015 quy định “buôn bán qua biên giới” là tình tiết định khung tăng nặng đối với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Như vậy, trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi buôn bán hàng giả qua biên giới thì định tội là tội buôn lậu hay tội sản xuất, buôn bán hàng giả? Đây là vấn đề còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau trong thực tiễn xét xử. Theo các tác giả, khách thể mà tội buôn lậu hướng đến là trật tự quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý; đối tượng tác động của tội buôn lậu là hàng hóa buôn bán qua biên giới trái pháp luật nhưng đó phải là “hàng hóa thật”. Khách thể mà tội sản xuất, buôn bán hàng giả hướng đến là trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng hoá, chống hàng giả; đối tượng tác động của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là “hàng hóa giả”. Do đó, trong trường hợp này, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng giả với tình tiết định khung “buôn bán qua biên giới”.
3. Kiến nghị
Qua phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, các tác giả kiến nghị, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, với những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Quy định cụ thể về khái niệm “hàng giả” và hành vi “sản xuất, buôn bán hàng giả” trong cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả; hành vi “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” cũng như các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như “quyền sở hữu công nghiệp”, “quy mô thương mại” đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ hai: Hướng dẫn cách phân biệt, xác định tội danh trong trường hợp hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với “hàng hóa giả mạo nhãn hiệu” quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả mà hàng giả là đối tượng quy định tại điểm đ khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98.
Thứ ba: Hướng dẫn cụ thể trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi buôn bán hàng giả qua biên giới thì truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội gì là phù hợp nhất với hành vi phạm tội cũng như quy định của pháp luật./. 
 
 

 


[1]Điều 10 BLHS năm 2015.        
[2]7. “Hàng giả” gồm:
a) Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng hoặc có giá trị sử dụng, công dụng không đúng so với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký;
b) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
c) Thuốc giả theo quy định tại khoản 33 Điều 2 của Luật Dược năm 2016 và dược liệu giả theo quy định tại khoản 34 Điều 2 của Luật Dược năm 2016;
d) Thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; không có đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; có ít nhất một trong các hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng;
đ) Hàng hóa có nhãn hàng hóa hoặc bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc nhập khẩu, phân phối hàng hóa; giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã số công bố, mã số mã vạch của hàng hóa hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của tổ chức, cá nhân khác; giả mạo về nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa hoặc nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
e) Tem, nhãn, bao bì hàng hóa giả”.
 
[3] Lê Đăng Doanh, Cao Thị Oanh, Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), tập 1, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, năm 2017, tr. 364, 365.
[4] Đặng Anh Đức, Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả?, https://baovephapluat.vn/tu-van-phap-luat/giai-dap-phap-luat/dau-hieu-phap-ly-cua-toi-san-xuat-buon-ban-hang-gia-71797.html, truy cập ngày 06/10/2021 và Tiêu Dao, Tìm hiểu nội dung “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), https://conganquangbinh.gov.vn/tim-hieu-noi-dung-toi-san-xuat-buon-ban-hang-gia-cua-blhs-nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017/, truy cập ngày 06/10/2021.
[5] “Điều 171. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 
1. Người nào vì mục đích kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.”.
[6]Hoàng Đình Dũng, Vướng mắc trong xử lý tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, https://kiemsat.vn/vuong-mac-trong-xu-ly-toi-xam-pham-quyen-so-huu-cong-nghiep-61234.html, truy cập ngày 06/10/2021.
[7] Lê Đăng Doanh, Cao Thị Oanh, Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (Sửa dổi, bổ sung năm 2017), tập 1, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, năm 2017, tr. 440.
[8]Điều 129. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý
1. Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
a) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;
b) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
c) Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
d) Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
2. Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại.
3. Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ:
a) Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý;
b) Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý;
c) Sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm cho người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó;
d) Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy”.
 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 21 (445), tháng 11/2021.)