Hoàn thiện các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian

06/11/2021

TS. PHAN QUỐC NGUYÊN

Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội,

THS. MAI QUỲNH CHI

Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Tóm tắt: Luật Sở hữu Trí tuệ đã có những quy định về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực mới và gây nhiều tranh cãi, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên phạm vi quốc tế. Tác phẩm văn học dân gian là tài sản chung của cộng đồng, nhưng không đồng nghĩa là vô chủ, có thể tùy nghi khai thác, sử dụng. Việc tùy tiện sử dụng, khai thác tác phẩm văn học dân gian sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực không nhỏ, thậm chí có thể theo chiều hướng ngược lại với những giá trị mà nó mang đến cho cộng đồng. Trong phạm vi bài viết này, các tác giả trình bày, phân tíchthực trạng sử dụng tác phẩm văn học dân gian, thực trạng các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Tác phẩm văn học dân gian, bảo hộ quyền tác giả, Luật Sở hữu trí tuệ.      
Abstract: Law on Intellectual Property has been regulating on the protection of copyright for folklore literature works. However, this protection is rather new and is controversal topic, not only in Vietnam but also in the world. Folklore literature works are common property of the entire community but these works are not owner, could not be used at all discretion. If these works are used, exploited in the unmanned way, these improper usage and exploitation will have not good, even negative, effects for the community. Within the scope of this article, the authors provide discussions and analysis of the current situation of using folklore literature works, the current situation of the provisions of the Law on Intellectual Property in aspect of copyright protection for folklore literary works and also recommendations for further improvement.
Keywords: Folklore literature works; copyright protection; Law on Intellectual Property.
 
1. Khái niệm và đặc điểm của tác phẩm văn học dân gian
Điều 23 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019 (Luật SHTT) quy định: “Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hóa và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác”. Định nghĩa này tương tự như định nghĩa về văn học dân gian mà Tổ chức SHTT Thế giới - World Intellectual Property Organization (WIPO) và UNESCO đã sử dụng chính thức tại Hội nghị các chuyên gia chính phủ năm 1985[1].Tac-pham-van-hoc-dan-gian-1.jpg
Nói cách khác, văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho cách sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng. Tác phẩm văn học dân gian (TPVHDG) mang những đặc trưng riêng biệt, đó là tính nguyên hợp, tính truyền miệng, tính tập thể và tính dị bản[2]. Dựa trên những đặc trưng đó mà điều kiện bảo hộ quyền tác giả (QTG) đối với TPVHDG có những điểm khác biệt so với điều kiện bảo hộ QTG đối với các tác phẩm khoa học, nghệ thuật thông thường như sau:
Thứ nhất, do tính dị bản là đặc trưng của TPVHDG, nên không bảo đảm được tính nguyên gốc; không dễ dàng có thể biết được ai là người đầu tiên sáng tạo ra TPVHDG. Hiện nay, rất nhiều các TPVHDG giống nhau về nội dung nhưng có chi tiết khác nhau, ví dụ như địa điểm trong tác phẩm, tên nhân vật, nơi xuất xứ... Những chi tiết khác nhau đó tạo ra những dị bản khác nhau, tất cả các dị bản đều tự động được bảo hộ mà không cần đảm bảo tính nguyên gốc của tác phẩm. Mỗi dị bản lại trở thành một TPVHDG của một cộng đồng làng xã nào đó, không biết đâu là tác phẩm gốc, đâu là tác phẩm được “cải biên”, cũng không biết được ai là tác giả sáng tạo ra chúng bởi đặc trưng truyền miệng; do vậy, chúng cần được tôn trọng và bảo vệ như nhau.
Thứ hai, bảo hộ TPVHDG không phụ thuộc vào việc định hình tác phẩm. Một điều kiện để được bảo hộ QTG là các tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định hay nói cách khác QTG bảo hộ hình thức sáng tạo. Tuy nhiên, hình thức chủ yếu của TPVHDG là truyền miệng, không có một hình thức nhất định nào cho chúng. Bởi vậy, TPVHDG sẽ được bảo hộ không phụ thuộc vào việc định hình. Các thể loại TPVHDG thuộc hình thức ngôn từ (truyền miệng). Ví dụ, một bài thơ dân gian có thể đọc hoặc ngâm thơ không bị bó buộc trong một hình thức cố định nào, chúng tự động được bảo hộ mà không cần định dạng.
2. Thực trạng sử dụng tác phẩm văn học dân gian
Hiện nay, việc lạm dụng TPVHDG xảy ra ngày càng nhiều và khó kiểm soát. Ví dụ, việc sử dụng tác phẩm nhưng không nêu rõ nguồn gốc xuất xứ như ở Kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của tác giả Lưu Quang Vũ, được chuyển thể từ truyện dân gian lâu đời “Trương đồ nhục”. Năm 1994, khi Nhà xuất bản Sân khấu in trong tuyển tập kịch Lưu Quang Vũ không ghi rõ điều này; đồng thời, Nhà hát Kịch Việt Nam, khi công diễn, chỉ ghi tác giả Lưu Quang Vũ mà không ghi rõ nguồn gốc xuất xứ tác phẩm. Bên cạnh đó, việc lạm dụng TPVHDG còn thể hiện ở những truyện cổ tích đều được truyện tranh biến thành “bình cũ rượu mới”. Ví dụ, truyện “Tấm Cám thời hiện đại” mặc dù cốt truyện Tấm Cám vẫn giữ nguyên như cũ, nhưng lời nói, tình huống đều bị biến dạng khiến truyện cổ tích đã không còn mang bản chất là cổ tích.
Ngoài ra, việc yêu cầu phải trả tiền bản quyền khi sử dụng TPVHDG là cần thiết, nhưng trên thực tế cũng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, Quan họ Bắc Ninh, chủ thể sáng tạo lưu giữ Quan họ Bắc Ninh là cộng đồng, nhưng trong Quan họ có rất nhiều yếu tố dân ca ở các vùng khác, thậm chí nó còn có cả yếu tố của nghệ thuật biểu diễn của chèo, tuồng và gần đây, các nhà khoa học còn phát hiện ra rằng nó có yếu tố của nhạc Chăm[3].
3. Thực trạng các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian, kiến nghị hoàn thiện
3.1. Chủ sở hữu
Đối với một tác phẩm, để xác định được phạm vi quyền được bảo hộ cũng như việc thực hiện chúng, cần xác định đúng ai là chủ sở hữu QTG. Luật SHTT chưa xác định được vấn đề này.
Có thể thấy rằng, khó mà áp đặt được một cá nhân hay tổ chức nào là chủ sở hữu QTG đối với TPVHDG. Bởi lẽ, đó là sáng tạo của cả cộng đồng. Theo quy định của Luật SHTT, chủ sở hữu QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học nói chung là “cá nhân, tổ chức” những người trực tiếp sáng tạo hay là chủ sở hữu QTG đối với tác phẩm. Quy định của Điều 23 Luật SHTT không cho thấy chủ sở hữu của quyền QTG đối với TPVHDG là ai, bởi không rõ ai là “những người trực tiếp sáng tạo hay là chủ sở hữu QTG đối với tác phẩm”.
Có ý kiến cho rằng, TPVHDG là tác phẩm khuyết danh, không xác định được ai là tác giả của nó. Vì vậy, chủ sở hữu QTG lúc này chính là Nhà nước[4]. Có thể thấy rằng, ý kiến trên chưa hợp lý; bởi lẽ, TPVHDG là sản phẩm của cộng đồng, tuy không nói cụ thể là ai, cá nhân hay tổ chức nào, nhưng việc nó thuộc cộng đồng nào, vùng miền nào luôn được xác định. Mặt khác, nếu bảo hộ TPVHDG như một tác phẩm khuyết danh thì chỉ được bảo hộ trong vòng 50 năm kể từ khi công bố. Như vậy, sẽ xảy ra một vấn đề, đó là thời gian bảo hộ được đặt ra với một tác phẩm có tính cố định, trong khi đó, TPVHDG không phải là tác phẩm cố định mà luôn được bổ sung, làm mới, thay đổi, sáng tạo sao cho phù hợp với từng cộng đồng, từng khu vực khác nhau.
Bên cạnh đó, TPVHDG cũng không phải là “tác phẩm thuộc về công chúng” được quy định tại Điều 43 Luật SHTT. Bởi lẽ, nó được hình thành trong cộng đồng nên không xác định được chính xác thời điểm công bố tác phẩm cũng như thời gian bảo hộ, do đó không thể xác định được khi nào thì hết thời hạn bảo hộ để từ đó gọi là “tác phẩm thuộc về công chúng”.
Những phân tích ở trên cho thấy, với những đặc tính của TPVHDG thì cần phải xác định rằng nó thuộc về quyền sở hữu của cộng đồng. Cộng đồng ở đây được hiểu là cộng đồng người đã sáng tạo ra nó nói riêng và toàn thể công chúng nói chung. Cộng đồng đã sáng tạo ra cần phải được hưởng quyền của những người đã sáng tạo; hay nói cách khác, đó là quyền về nguồn gốc của tác phẩm.
Mặt khác, ở Việt Nam, mỗi cộng đồng dân tộc lại có những TPVHDG mang bản sắc của riêng mình, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hóa và xã hội của họ, các tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền. Để thực hiện quyền tài sản, mỗi cộng đồng phải thành lập nên một tổ chức có tư cách chủ sở hữu. Điều này sẽ dẫn đến các cơ chế, thủ tục hành chính liên quan cũng trở nên phức tạp, chồng chéo. Do vậy, các tác giả cho rằng, cần phải xác định toàn thể công chúng Việt Nam là chủ sở hữu TPVHDG. Nhà nước trao thẩm quyền cho một cơ quan đại diện cho toàn thể công chúng thực thi các quyền tác giả có liên quan.
3.2. Phạm vi bảo hộ
Như đã phân tích ở trên, do không xác định được chủ sở hữu QTG đối với TPVHDG nên việc xác định phạm vi bảo hộ QTG đối với TPVHDG là chưa đầy đủ. Theo quy định của khoản 2 Điều 23 Luật SHTT, tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Quy định này chỉ xác lập quyền nhân thân của QTG mà không đề cập đến quyền tài sản của TPVHDG.
Đối với quyền nhân thân, dẫn chiếu xuất xứ TPVHDG là yêu cầu quan trọng hàng đầu khi sử dụng tác phẩm. Quyền này tương tự như quyền “đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng” được Luật SHTT bảo hộ đối với QTG thông thường. Quyền này thể hiện vai trò chủ sở hữu của chính bản thân cộng đồng đã sáng tạo ra tác phẩm. Họ phải có quyền xác nhận là nguồn gốc của tác phẩm mỗi khi tác phẩm được sử dụng hoặc dẫn chiếu.
Bên cạnh đó, đối với TPVHDG, một quyền nhân thân khác cũng cần được bảo hộ là quyền được “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”[5]. Quyền nhân thân này thuộc về cả cộng đồng sáng tạo ra nó và toàn thể công chúng.
Các tác giả cho rằng, thay vì bảo hộ quyền nhân thân đối với TPVHDG theo hướng áp dụng những quy định chung, Luật SHTT cần đặt ra những quy định riêng và cụ thể để bảo hộ giá trị đích thực của loại hình này cũng như việc dẫn chiếu xuất xứ khi sử dụng. Bên cạnh đó, trên thực tế, một số TPVHDG vẫn có tên tác giả. Do vậy, ngoài việc quy định về dẫn chiếu xuất xứ khi sử dụng, Luật SHTT cần quy định yêu cầu bắt buộc trích dẫn tên tác giả đối với những TPVHDG có tên tác giả, để đảm bảo quyền nhân thân của chính tác giả.
Mặt khác, thuật ngữ “sử dụng” quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật SHTT được hiểu là việc nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu giá trị đích thực TPVHDG. Đây thực chất là hành vi “phi thương mại”, tức là không tạo ra lợi nhuận từ việc sử dụng các TPVHDG. Nếu hành vi phi thương mại phải trả thù lao sẽ không phù hợp với quy định của Điều 25 của Luật SHTT. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là có nên thu phí khi sử dụng các TPVHDG hay không? Các tác giả cho rằng, việc thu phí này là cần thiết. Bởi lẽ, những TPVHDG luôn mang trong mình những sự sáng tạo nghệ thuật to lớn, giá trị dân tộc sâu sắc và những nét văn hóa đặc trưng. Việc thu phí sử dụng mang lợi ích có thêm nguồn vốn để hoàn thiện hay phát huy thêm nhiều TPVHDG, để quảng cáo hình ảnh văn hóa, những nét đặc sắc, tinh hoa dân tộc ra thế giới. Bên cạnh đó, văn học dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc nhận dạng văn hóa của quốc gia này với quốc gia khác; điều này cũng được Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) khẳng định[6]. Hơn nữa, cơ chế bảo hộ tốt có thể ngăn chặn được sự xâm phạm về SHTT trong lĩnh vực văn hóa dân gian trong bối cảnh thương mại hóa toàn cầu phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc thu phí này được hiểu chỉ là điều kiện cho việc sử dụng các TPVHDG ở trong nước; không nên xác lập quyền độc quyền cho phép sử dụng hay không sử dụng TPVHDG tương tự như quyền độc quyền của chủ sở hữu một tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thông thường được quy định như một phần quan trọng của quyền tài sản[7].
3.3. Mục đích bảo hộ
Việc pháp luật quy định về bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật thông thường nói chung và TPVHDG nói riêng nhằm mục đích công nhận về nguồn gốc sáng tạo ra tác phẩm và bảo đảm lợi ích chính đáng của tác giả và chủ sở hữu QTG. Như đã phân tích ở trên đây, tác giả của TPVHDG là cộng đồng dân cư theo sắc tộc hoặc theo một vùng lãnh thổ nhất định. Họ không phải một “tổ chức, cá nhân” cụ thể; do đó, việc xác định tác giả là ai, và bù đắp vật chất công sức sáng tạo cho tác giả là điều không dễ dàng. Mặt khác, việc xác định mục đích của bảo hộ QTG đối với TPVHDG là cơ sở để phân biệt sự “bảo hộ” đối với các TPVHDG với “bảo hộ” các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thông thường. Bảo hộ TPVHDG không có nghĩa là độc quyền sử dụng và cho phép sử dụng các tác phẩm TPVHDG như đối với tác phẩm thông thường. TPVHDG sẽ được bảo hộ khi mọi công dân được tiếp cận một cách dễ dàng, duy trì và làm mới nó để phản ánh giá trị văn hóa của cả cộng đồng.
Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian hướng tới mục đích cao nhất chính là bảo vệ những tri thức truyền thống, sự đa dạng văn hóa. Với mục đích này, việc cấp phép sử dụng như bảo hộ quyền tác giả thông thường trở nên không thực sự cần thiết khi một công dân Việt Nam muốn tiếp cận và sử dụng tác phẩm văn học dân gian. Tuy nhiên, đối với người sử dụng là người nước ngoài, việc bảo hộ tác phẩm văn học dân gian như một tác phẩm văn học, nghệ thuật thông thường lại là điều cần thiết. Khi sử dụng tác phẩm văn học dân gian vì mục đích lợi nhuận, họ đã xác lập với Nhà nước một mối quan hệ tương tự như với chủ sở hữu quyền tác giả đối với những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thông thường khác. Vì vậy, Luật SHTT cần quy định cụ thể về mục đích, vai trò của bảo hộ TPVHDG.
3.4. Thời hạn bảo hộ
Pháp luật SHTT hiện hành không quy định về thời hạn bảo hộ đối với TPVHDG. Như đã phân tích ở trên, các tác giả cho rằng, nếu bảo hộ TPVHDG như một tác phẩm khuyết danh thì nó chỉ được bảo hộ trong vòng 50 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố; điều này không phù hợp với đặc điểm của TPVHDG vì TPVHDG luôn được làm mới, bổ sung và phát triển qua từng thời kỳ. Vì vậy, cần xác định thời hạn bảo hộ TPVHDG là vô thời hạn./. 

 


[1] Nguyên văn tiếng Anh: “Folklore (in a broader sense, traditional and popular folk culture) is a group-oriented and tradition-based creation group or individuals reflecting the expectations of the community as an adequate expression of its cultural and social identity; its standards and values are transmitted orally, by imitation or by other means. Its forms include, among others, language, literature, music, dance, games, mythology, rituals, customs, handicrafts, architecture and other arts”. Trích từ Ian McDonald, UNESCO–WIPO World Forum on the Protection of Folklore: some reflections and reactions, (báo cáo cho Australian Copyright Coucil, tháng 06/1997, tr.2).
[2] Vũ Anh Tuấn (2016), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
[3] Nguyễn Thị Triển (2013), Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.64.
[4] Vũ Thị Phương Lan (2006), Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, Hà Nội, tr.27.
[5] Khoản 4 Điều 19 Luật SHTT.
[6] Xem: Nghiên cứu của Văn phòng quốc tế (International Bureau) của WIPO, The Protection of Expressions of Folklore: The Attempts at International Level, WIPO Publication No. 435(E), tháng 1-6, 1998, số ISSN: 1014-336X.
[7] Vũ Thị Phương Lan (2006), Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Luật học, Hà Nội.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 21 (445), tháng 11/2021.)