Ban hành Luật Đầu tư công để nâng cao hiệu quả đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải

01/06/2014

TS. NGUYỄN THỊ PHÚ HÀ

Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trong thời gian qua, đầu tư công đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tạo môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và công bằng xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật quản lý đầu tư công chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, thiếu các chế tài và biện pháp quản lý, giám sát, nên đã phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế, như: phê duyệt chủ trương và quyết định đầu tư tràn lan không tính đến khả năng cân đối vốn, bố trí vốn dàn trải; kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm; và đã gây nhiều thất thoát, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp. Tình trạng thi công vượt quá vốn kế hoạch được giao, gây nợ đọng xây dựng cơ bản quá mức, gây áp lực lớn đến cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) các cấp, đẩy ngân sách trung ương vào thế bị động trong nhiều năm qua.
Hiện nay, việc quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như Luật NSNN, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư… và các Nghị định, quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật này đều chưa có các quy định cụ thể liên quan đến việc quản lý các chương trình, dự án đầu tư công. Hay nói cách khác, hiện chưa có một văn bản pháp luật nào chế định đầy đủ toàn bộ quá trình đầu tư công từ chủ trương đầu tư, thẩm định nguồn vốn đối với các chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư công, lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch đầu tư, triển khai thực hiện kế hoạch, theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch đầu tư công.
Để khắc phục các tồn tại nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ NSNN và trái phiếu Chính phủ. Việc thực hiện Chỉ thị số 1792/CT-TTg này đã khắc phục một bước các tồn tại, hạn chế nêu trên; tình trạng phê duyệt dự án tràn lan đã từng bước được chấn chỉnh, việc bố trí vốn đầu tư được tập trung hơn. Tuy nhiên, các giải pháp nêu tại Chỉ thị số 1792/CT-TTg mới là các giải pháp cấp bách trước mắt, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong quản lý đầu tư công một cách toàn diện, có hệ thống và đây cũng chưa phải là văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua, nên tính pháp lý còn thiếu bền vững.
Với tình hình thực tế và trước những bất cập, hạn chế, tồn tại nêu trên, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), thực hiện tái cơ cấu đầu tư, mà trọng tâm là đầu tư công, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án Luật Đầu tư công để Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII. Việc ban hành Luật Đầu tư công là hết sức cần thiết, nhằm tăng cường quản lý sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước để hướng tới thực hiện mục tiêu đột phá xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm.
1. Mục tiêu và quan điểm xây dựng dự thảo Luật Đầu tư công
Luật Đầu tư công được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và hoàn chỉnh để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hoạt động đầu tư và sử dụng vốn đầu tư công; khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư theo đúng mục tiêu, định hướng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; chống thất thoát, lãng phí; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong đầu tư công.
Dự thảo Luật Đầu tư công được xây dựng trên các quan điểm chủ yếu sau:
 - Quán triệt và thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu đầu tư mà trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư công nói riêng. Đặc biệt là phải thể chế hóa các quy định về đổi mới, tăng cường quản lý đầu tư công đã nêu trong Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công trong toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư; lập, theo dõi và đánh giá kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
- Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tất cả các khâu liên quan đến quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; trong đó quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu các tổ chức, cơ quan đơn vị liên quan đến việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công.
- Các quy định trong Luật phải rõ ràng, cụ thể, không chồng chéo, trùng lắp với quy định của các Luật khác. Đồng thời bảo đảm phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính nhằm giảm tối đa các nội dung cần hướng dẫn thực hiện sau khi ban hành Luật.
- Từng bước hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế trong quản lý đầu tư công.
2. Những nội dung cơ bản của dự thảo Luật Đầu tư công
Dự thảo Luật Đầu tư công đã được chuẩn bị một cách công phu, nghiêm túc, trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quản lý đầu tư công. Tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các bộ, ban ngành, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ban soạn thảo đã nghiên cứu hoàn chỉnh Dự thảo trình Quốc hội.
Dự thảo Luật Đầu tư công có 6 chương với 106 điều. Phạm vi điều chỉnh Luật tập trung quy định việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư công từ NSNN, vốn công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối NSNN, các khoản vốn vay của ngân sách địa phương để đầu tư.
Các tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động đầu tư công, quản lý và sử dụng vốn đầu tư công trên lãnh thổ Việt Nam và tại nước ngoài đều thuộc đối tượng áp dụng của Luật.
Với phạm vi điều chỉnh này, dự thảo Luật Đầu tư công đã quy định thống nhất việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công từ khâu xác định chủ trương đầu tư, lập, thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án đầu tư công; đến việc lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công; tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch; theo dõi, đánh giá, thanh tra, kiểm tra, giám sát các chương trình, dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn đầu tư công của tất cả các cấp, các ngành; đồng thời dự thảo Luật cũng quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, các tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư công; chế tài xử lý vi phạm...
Luật Đầu tư công còn có nhiều nội dung quy định mới, chưa được chế định tại các văn bản Luật khác. Cụ thể:
Chương I: Những vấn đề chung được quy định với 16 điều, ngoài các quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ tương tự như các dự thảo Luật khác, trong Chương I đã làm rõ các chương trình, dự án nào thuộc các lĩnh vực đầu tư công (Điều 5). Ngoài ra, trong chương này cũng đã quy định 6 điều (từ điều 6 đến điều 11) về các tiêu chí phân loại dự án, điều chỉnh tiêu chí phân loại dự án đầu tư công là những nội dung mới từ trước đến nay mới chỉ quy định rải rác ở các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, chưa được luật hóa tại bất cứ văn bản luật nào. Các nguyên tắc và nội dung quản lý đầu tư công được quy định trong dự thảo Luật bảo đảm việc quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư công để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách tập trung, hiệu quả. Các nội dung công khai, minh bạch trong đầu tư công đã quy định toàn bộ quá trình hoạt động đầu tư công phải được thực hiện công khai, minh bạch, bao gồm từ khâu xây dựng, ban hành các chính sách, pháp luật; nguyên tắc tiêu chí lựa chọn danh mục dự án đầu tư; nguyên tắc tiêu chí phân bổ vốn; xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án... Dự thảo Luật cũng đã quy định đầy đủ các hành vi bị cấm liên quan đến toàn bộ các hoạt động đầu tư công.
Chương II: Chủ trương đầu tư và lập, thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án đầu tư công,gồm 2 mục với 29 điều:
- Mục 1. Chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công: Quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư; điều kiện và trình tự thủ tục quyết định chủ trương đầu tư đối với từng chương trình, dự án quan trọng quốc gia và các chương trình, dự án khác.
- Mục 2. Lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án đầu tư công: quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư công; căn cứ và trình tự, thủ tục lập, thẩm định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư công; thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn chương trình, dự án đầu tư công; điều chỉnh chương trình, dự án đầu tư công.
Chương III: Lập kế hoạch đầu tư công,gồm 24 điều. Chương này bao quát toàn bộ quy trình từ lập kế hoạch đến thẩm định và phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm theo các nguyên tắc, điều kiện lựa chọn danh mục chương trình, dự án đầu tư theo từng nguồn vốn cụ thể. Việc lập, thẩm định và phê duyệt kế hoạch vẫn thực hiện theo phân cấp hiện hành, cấp nào quản lý cấp đó sẽ chịu trách nhiệm lập và phê duyệt kế hoạch nhưng phải trên các nguyên tắc chung được quy định trong Luật.
Chương IV: Thực hiện và theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch đầu tư công,gồm 2 mục với 14 điều quy định các nội dung về tổ chức điều hành kế hoạch đầu tư công; các nội dung triển khai thực hiện kế hoạch; thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư trung hạn, hàng năm; theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
Chương V: Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan khác của Nhà nước và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý và sử dụng đầu tư công, gồm 2 mục với 20 điều:
- Mục 1: Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về đầu tư công.
- Mục 2: Quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến đề xuất chủ trương đầu tư; quyết định chủ trương đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án; theo dõi, đánh giá kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công. Đồng thời trong mục này cũng quy định các chế tài xử lý vi phạm đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan đến quản lý đầu tư công.
Chương VI: Điều khoản thi hành,gồm 3 điều quy định việc xử lý các dự án đã và đang thực hiện trước khi ban hành Luật này của các bộ, ngành, địa phương, thời hạn có hiệu lực của Luật và việc hướng dẫn thi hành Luật.
3. Những điểm mới và dự kiến kết quả, tác động tích cực của Luật Đầu tư công
Thứ nhất, Luật Đầu tư công góp phần hoàn thiện, tạo ra hệ thống cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật khác trong quản lý các nguồn vốn đầu tư công.  
Quản lý và sử dụng vốn đầu tư công có liên quan đến nhiều luật khác nhau, như: Luật NSNN, Luật Xây dựng, Luật Quản lý nợ công, Luật Quản lý sử dụng tài sản nhà nước, Luật Đấu thầu, Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí... Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật này chưa có các quy định chi tiết về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công. Cụ thể:
 - Đối với Luật NSNN: Phạm vi đối tượng điều chỉnh của Luật chỉ quy định về việc quản lý các khoản thu, chi được đưa vào cân đối NSNN và được thực hiện trong một năm. Trong khi phạm vi đối tượng điều chỉnh Luật Đầu tư công quy định toàn bộ việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công từ chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, phê duyệt, triển khai thực hiện, theo dõi, đánh giá kế hoạch, chương trình, dự án…Về phạm vi nguồn vốn đầu tư công, ngoài nguồn vốn NSNN được quy định trong Luật NSNN, Luật Đầu tư công còn chế định đối với các nguồn vốn: công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối NSNN, các khoản vốn vay của ngân sách địa phương để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng của địa phương.
Đối với việc lập kế hoạch đầu tư nguồn NSNN, Luật NSNN chỉ quy định chung trình tự lập, thẩm định, phê duyệt dự toán NSNN, bao gồm một số điều khoản nhỏ quy định về lập dự toán chi đầu tư phát triển nguồn NSNN; không có quy định về quyết định chủ trương đầu tư, lựa chọn danh mục, bố trí kế hoạch đầu tư như thế nào để bảo đảm việc chi tiêu hiệu quả nguồn vốn này. Trong khi đó Luật Đầu tư công quy định toàn diện và chặt chẽ việc xác định lựa chọn danh mục chương trình, dự án đưa vào kế hoạch; các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ và bố trí vốn kế hoạch; quy trình cách thức triển khai; theo dõi, đánh giá, giám sát thực hiện kế hoạch đầu tư công.
- Đối với Luật Xây dựng: Luật Xây dựng quy định về hoạt động xây dựng; tập trung vào các nội dung về mặt kỹ thuật như quản lý về định mức kinh tế kỹ thuật, thiết kế về quy hoạch xây dựng; lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng; khảo sát xây dựng và thiết kế xây dựng; giấy phép xây dựng; hợp đồng xây dựng;... Luật Xây dựng chỉ áp dụng cho các dự án đầu tư có cấu phần xây dựng.
Phạm vi điều chỉnh Luật Đầu tư công là cho tất cả các dự án đầu tư công; quản lý hoạt động đầu tư và quản lý, sử dụng vốn đầu tư từ chủ trương đầu tư đến lựa chọn danh mục dự án đầu tư, lập kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm. Ngoài ra, trong quy định của Luật Đầu tư công việc lập, thẩm định, phê duyệt còn được quy định áp dụng cho các chương trình đầu tư công và các dự án đầu tư không có cấu phần xây dựng. Hiện nay chưa có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định đối tượng điều chỉnh này.
- Đối với Luật Quản lý nợ công: Để bảo đảm về an toàn nợ công, nợ quốc gia, trong dự thảo Luật Đầu tư công đã quy định về nguyên tắc và căn cứ lập kế hoạch đầu tư công phải ưu tiên đảm bảo về an toàn nợ công và tuân thủ chiến lược nợ quốc gia. Việc đầu tư các chương trình, dự án, cũng như kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm bắt buộc phải được thực hiện theo kế hoạch vay, trả nợ Chính phủ. Dự thảo Luật Đầu tư công với các quy định rõ ràng từ khâu xác định chủ trương đầu tư; phê duyệt quyết định đầu tư; đến lập kế hoạch đầu tư, sẽ giải quyết được những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm trả nợ và an toàn nợ công.
- Đối với Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: Trong các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chỉ quy định một vài điều về nguyên tắc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch và danh mục dự án đầu tư; không quy định chi tiết, cụ thể. Các nội dung giữa các luật hoàn toàn thống nhất. Do đó, việc ban hành các quy định cụ thể trong dự thảo Luật Đầu tư công sẽ hỗ trợ cho việc xử lý các trường hợp vi phạm nêu tại Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Như vậy, có thể thấy các quy định trong Luật Đầu tư công nhằm thống nhất về phạm vi điều chỉnh của các luật, không có sự chồng chéo giữa Luật Đầu tư công với các luật nêu trên.
Thứ hai, phạm vi điều chỉnh của Luật bao quát được việc quản lý sử dụng các nguồn vốn đầu tư công
 Với phạm vi điều chỉnh (Điều 1) và các đối tượng phạm vi áp dụng Luật (Điều 2, Điều 3) được quy định tại Chương I, Luật Đầu tư công đã bao quát các nguồn vốn đầu tư công từ NSNN, công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn thu để lại đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối NSNN, các khoản vốn vay của ngân sách địa phương để đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam và tại nước ngoài.
Riêng về đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được chế định trong Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh Chính phủ cũng trình Quốc hội trong kỳ họp này.
Thứ ba, đã thể chế hóa quy trình quyết định chủ trương đầu tư - là nội dung đổi mới quan trọng nhất của Luật Đầu tư công; đó là điểm khởi đầu quyết định tính đúng đắn, hiệu quả của chương trình, dự án; nhằm ngăn ngừa sự tùy tiện, chủ quan, duy ý chí và đơn giản trong việc quyết định chủ trương đầu tư, nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định chủ trương đầu tư
Thực tế quản lý đầu tư công trong thời gian qua cho thấy lãng phí, thất thoát có nhiều nguyên nhân khác nhau, như: do buông lỏng quản lý, đầu tư dàn trải, tham nhũng, bớt xén trong thi công,... nhưng lãng phí lớn nhất là do chủ trương đầu tư không đúng, không hiệu quả.
Tình hình trên đã kéo dài trong nhiều năm nhưng chưa có biện pháp khắc phục, mà ngược lại có mặt còn trầm trọng hơn. Vì vậy, trong Dự án Luật đã dành trọn Mục 1 trong Chương II để chế định các nội dung, quy trình, phê duyệt chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư, bao gồm: thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư; điều kiện và trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư đối với từng chương trình, dự án quan trọng quốc gia và các chương trình, dự án khác.
Đây là những quy định mới chưa được chế định trong các quy phạm pháp luật hiện hành; đặc biệt các nội dung về thẩm quyền và trình tự nghiêm ngặt quyết định chủ trương đầu tư các chương trình, dự án đầu tư công.
Thứ tư, tăng cường và đổi mới công tác thẩm định về nguồn vốn và cân đối vốn, coi đó là một trong những nội dung quan trọng nhất của công tác thẩm định chương trình, dự án đầu tư công.
Hiện nay, nhiều bộ, ngành và địa phương chưa coi trọng công tác thẩm định về nguồn vốn và cân đối vốn, hoặc chỉ làm hời hợt, chiếu lệ; quyết định các chương trình, dự án với quy mô lớn gấp nhiều lần khả năng cân đối vốn của cấp mình, cũng như khả năng bổ sung của ngân sách cấp trên.
Việc quy định về thẩm định nguồn vốn và cân đối vốn (thể chế hóa các chủ trương, giải pháp trong Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011) sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả của chương trình, dự án đầu tư công.
Thứ năm, Luật Đầu tư công được ban hành sẽ bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ và xuyên suốt trong toàn bộ quá trình quản lý chương trình, dự án đầu tư công;từkhâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, triển khai thực hiện dự án, đến khâu cuối là đánh giá hiệu quả, quản lý chương trình, dự án sau đầu tư.
Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ công tác lập kế hoạch đầu tư; chuyển từ việc lập kế hoạch ngắn hạn, hàng năm sang kế hoạch trung hạn 5 năm, phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.Đây cũng là một trong những đổi mới quan trọng trong quản lý đầu tư công. Dự thảo Luật đã dành riêng một chương quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư công (Chương III) bao quát toàn bộ quy trình từ lập kế hoạch đến thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm theo các nguyên tắc, điều kiện lựa chọn danh mục chương trình, dự án đầu tư theo từng nguồn vốn cụ thể.
Trong công tác lập kế hoạch đầu tư công, Luật quy định nhiều nội dung mới, có căn cứ khoa học và thực tiễn, như việc lập kế hoạch đầu tư trung hạn sẽ bảo đảm các chương trình, dự án khi được phê duyệt sẽ được bố trí đủ vốn để hoàn thành theo đúng quyết định phê duyệt, khắc phục tình trạng không cân đối được nguồn vốn, bị động, đầu tư cắt khúc ra từng năm hiện nay.
Các căn cứ, nguyên tắc lập kế hoạch đầu tư trung hạn và hàng năm cho tất cả các nguồn vốn được quy định chặt chẽ, cụ thể, bảo đảm việc lập kế hoạch phù hợp với các mục tiêu, định hướng, trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Các nguyên tắc bố trí vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm cho các chương trình, dự án, cũng như các nguyên tắc lựa chọn danh mục dự án và dự kiến mức vốn bố trí cho từng dự án trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm của từng nguồn vốn  bảo đảm việc bố trí vốn cho các chương trình, dự án, khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún hiện nay.
Các điều kiện chương trình, dự án đầu tư công được bố trí vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm bảo đảm đủ thời gian cho các chương trình, dự án hoàn thành các thủ tục đầu tư; đồng thời yêu cầu các chủ chương trình, dự án chỉ được bố trí vốn kế hoạch hàng năm khi đã có đầy đủ các thủ tục đầu tư đúng thời gian quy định, khắc phục tình trạng vừa thi công vừa hoàn thiện các thủ tục đầu tư như hiện nay.
Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đầu tư trung hạn sẽ vừa bảo đảm các cân đối kinh tế lớn trong phạm vi cả nước, vừa tạo sự chủ động cho các bộ, ngành, địa phương biết cấp mình, cơ quan mình có bao nhiêu vốn trong kế hoạch 5 năm để có quyết định chủ trương đầu tư đúng đắn, hiệu quả hơn; đặc biệt là tạo ra sự công khai, minh bạch trong phân bổ nguồn lực của Nhà nước.
Thứ bảy, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.
Dự thảo Luật dành một chương quy định các nội dung về triển khai thực hiện kế hoạch; theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công của tất cả các cấp, các ngành. Đây cũng là lần đầu tiên công tác theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư và các chương trình, dự án đầu tư công, đặc biệt các quy định về giám sát cộng đồng được quy định trong Luật, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Các quy định này sẽ bảo đảm kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công được triển khai thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật. Đồng thời, trong từng khâu thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đều được tổ chức theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra, bảo đảm quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ tám, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy chế phân cấp quản lý đầu tư công, phân định quyền hạn đi đôi với trách nhiệm của từng cấp.
Trên cơ sở giữ các nguyên tắc về phân cấp quản lý đầu tư công, quyền hạn của các cấp, các ngành như hiện nay, Dự án Luật đã chế định các quyền hạn và trách nhiệm của các cấp trong toàn bộ quá trình đầu tư của các chương trình, dự án từ lập kế hoạch, phê duyệt, đến triển khai theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư công.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 11(267), tháng 6/2014)