Hiến pháp năm 2013 và việc phát triển nhận thức về hiến pháp

01/06/2014

GS, TSKH, ĐÀO TRÍ ÚC

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Chủ tịch Viện Chính sách công và Pháp luật, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam.

 "Hiến pháp, thi hành Hiến pháp và nhận thức về Hiến pháp là những yếu tố có sự liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ đó phản ánh quan điểm tiếp cận hoàn chỉnh về Hiến pháp, là cơ sở cho việc đưa Hiến pháp vào thực tiễn cuộc sống xã hội và sinh hoạt quốc gia”. Hiến pháp Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013 đã mở ra những nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc cho những vấn đề cơ bản của xã hội, đồng thời đánh dấu bước ngoặt về sự phát triển nhận thức về Hiến pháp ở Việt Nam. Bài viết sẽ cung cấp một cái nhìn đa diện, sâu sắc và nhiều gợi mở liên quan đến vấn đề này – vốn là một chủ đề hết sức căn bản và lý thú đối với nền khoa học pháp lý nói chung và chủ nghĩa lập hiến ở Việt Nam nói riêng.

Untitled_360.png

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Đặt vấn đề

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp tình hình mới” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai BCHTW Đảng khóa XI, ngày 06/8/2011, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 06/2011/QH13 về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.

Các văn kiện về Hiến pháp đã chỉ ra rằng việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan, cần thiết; đây là công việc quan trọng đặc biệt, phải dựa trên kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; quán triệt đầy đủ mục đích, yêu cầu, quan điểm, định hướng của Đảng, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp.

Hiến pháp năm 2013 đã mở ra những nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc và ổn định cho việc tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (sau đây viết tắt “XHCN”), bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước; tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể chế hóa sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đồng thời, sửa đổi Hiến pháp còn có mục đích bảo đảm để Hiến pháp có sức sống lâu bền, bảo đảm hiệu lực, tính ổn định của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN.
Hiến pháp, thi hành Hiến pháp và nhận thức về Hiến pháp là những yếu tố có sự liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ đó phản ánh quan điểm tiếp cận hoàn chỉnh về Hiến pháp, là cơ sở cho việc đưa Hiến pháp vào thực tiễn cuộc sống xã hội và sinh hoạt quốc gia.
Hiến pháp ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đã có lịch sử lâu dài, tuy nhiên, qua từng giai đoạn, các nước cũng đã có những cải cách nhất định. Giai đoạn cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đang chứng kiến những sự thay đổi mang tính cải cách về Hiến pháp ở nhiều nước, trước hết là ở những nước chuyển đổi, nhưng cũng không loại trừ các quốc gia có Hiến pháp lâu đời như Italy, Pháp, Tây Ban Nha.
Có thể nhận định rằng, ở nước ta lý luận về Hiến pháp chưa có một vị trí đáng kể trong các khoa học chính trị và khoa học pháp lý. Điều đó có thể thấy rõ nhất trong các chương trình đào tạo đại học, cao đẳng và hệ thống các chuyên ngành khoa học. Theo đó, trước đây ở nước ta từng có giai đoạn không có môn học “Luật Hiến pháp” mà những nội dung liên quan đến Hiến pháp được gọi là luật Nhà nước[c1] . Một số công trình nghiên cứu sớm về Hiến pháp được xuất bản thường gắn với nhu cầu giải thích, bình luận Hiến pháp[1]. So với các chuyên ngành khoa học pháp lý khác thì chuyên ngành luật Hiến pháp ở Việt Nam vừa chậm trễ về thời gian, vừa mỏng về đội ngũ các nhà nghiên cứu. Vì vậy, những nỗ lực nghiên cứu về Hiến pháp trong nhiều năm qua của các nhà khoa học pháp lý Việt Nam đã mở ra một hướng nghiên cứu cần thiết, có thể được coi là một bước phát triển đáng trân trọng của khoa học pháp lý Việt Nam.  
Từ khi Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, việc nghiên cứu, trao đổi về những vấn đề khác nhau của Hiến pháp mới thực sự trở nên sôi nổi với nhiều xuất bản phẩm, nhiều diễn đàn[2].
Nhiều hội thảo đã được tổ chức mà tiêu biểu là: “Tổ chức bộ máy Nhà nước, chế định kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp 1992- những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Chương trình phát triển LHQ tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh 23-24/7/2012; “Hoàn thiện chương chính quyền địa phương của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và định hướng xây dựng Luật chính quyền địa phương” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Quỹ Rosa Luxemburg tổ chức tại Nha Trang 28-29/3/2013; “Quy trình, thủ tục, cách thức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 10-11/9/2012; Hội thảo “Kinh nghiệm lập hiến của Việt Nam và Hoa Kỳ” do Viện Nghiên cứu lập pháp và Khoa Luật, Đại học Chicago (Mỹ) tổ chức tại Hà Nội ngày 19/12/2012 v.v…
Hướng nghiên cứu thứ nhất trong các nỗ lực này là nghiên cứu về lịch sử và lý luận về tư tưởng lập hiến; chủ nghĩa lập hiến, nghiên cứu so sánh về Hiến pháp[3].
Hướng nghiên cứu thứ hai tập trung nghiên cứu về quyền con người như một yếu tố quan trọng của chủ nghĩa lập hiến và Nhà nước pháp quyền XHCN. Có thể nói rằng, kết quả nghiên cứu vấn đề này trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện đại đã giúp nhìn nhận đúng hơn định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, làm chuyển biến tư duy về định hướng cải cách pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Hướng nghiên cứu thứ ba chú ý đến những bảo đảm cho việc thi hành Hiến pháp, đề cao Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp. Theo đó, trước hết phải nói đến các công trình nghiên cứu về tài phán Hiến pháp và áp dụng tài pháp Hiến pháp ở Việt Nam. Đáng chú ý là đã có nhiều công trình nghiên cứu về các thiết chế hiến định độc lập như Ombudsman, Cơ quan kiểm toán, Hội đồng bầu cử quốc gia, Cơ chế nhân quyền độc lập, Ngân hàng Trung ương[4].
Quá trình nghiên cứu đã phản ánh những nỗ lực nhằm lập luận rõ hơn nội dung một nguyên tắc đã được hiến định ở nước ta từ năm 2001, nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2, Hiến pháp năm 1992), chỉ ra nhu cầu phải tiếp tục điều chỉnh đầy đủ và trên một quan điểm mới về chức năng, thẩm quyền và quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước theo chiều ngang và chiều dọc giữa trung ương và địa phương.
Những diễn đàn nói trên đã vào cuộc rất kịp thời quá trình nghiên cứu, tìm tòi những cở sở lý luận và thực tiễn cho việc sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam. Có thể nhận thấy những điểm nhấn quan trọng nhất của quá trình nghiên cứu này:
Thứ nhất, đã bước đầu tạo nhận thức đầy đủ hơn về bản chất của Hiến pháp. Theo đó, Hiến pháp không chỉ đơn thuần và về mặt hình thức là đạo luật có hiệu lực cao nhất trong hệ thống pháp luật mà trước hết là một văn bản thể hiện ý chí của nhân dân, là hiện thân của chủ quyền nhân dân. Thông qua Hiến pháp, nhân dân thực hiện trực tiếp và  gián tiếp (ủy quyền) cho các thiết chế Nhà nước.
Thứ hai, Hiến pháp và chỉ có ở mức độ của Hiến pháp mới có thể phá dỡ được các rào cản pháp lý làm cản trở quá trình phát triển tiến bộ của đất nước và xã hội. Trong số đó có các vấn đề cốt tử của chế độ kinh tế như sở hữu, các thành phần kinh tế, quản trị tài sản quốc gia v.v
Thứ ba, Hiến pháp có vai trò to lớn trong việc bảo đảm tính pháp quyền của Nhà nước. Sửa đổi Hiến pháp là để tạo ra những khả năng mới làm cho các yếu tố pháp quyền đầy đủ hơn, chắc chắn hơn. Hiến pháp cần có sức sống bền vững nhằm tạo sự ổn định của quá trình phát triển đất nước. Đó là sự hiện diện của Hiến pháp và bảo đảm vai trò tối thượng của Hiến pháp, sự tôn trọng Hiến pháp trong đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia, nhu cầu thực hiện trực tiếp tinh thần và lời văn của Hiến pháp; đó là cơ chế hữu hiệu để tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người; bảo đảm để có sự thống nhất, sự phân công, phối hợp và kiểm soát hữu hiệu quyền lực giữa các cơ quan trong cơ chế quyền lực Nhà nước; đó là sự độc lập của tư pháp, bảo đảm để tư pháp là hiện thân của công lý, bảo vệ quyền con người, thực sự “là chỗ dựa tin cậy của nhân dân[5], bảo đảm xử lý đúng đắn mối quan hệ pháp lý giữa Trung ương và địa phương.
2. Một số khái niệm và mối liên hệ trong khoa học luật Hiến pháp Việt Nam
Chủ nghĩa lập hiến và nội hàm của nó
Có thể nói rằng, trong giới học thuật Việt Nam, chưa có sự luận bàn thật sâu và chuyên về khái niệm “chủ nghĩa lập hiến”. Khái niệm rất phổ biến trong các ngôn ngữ nước ngoài là “Constitutionalism” đã được các nhà nghiên cứu Việt Nam sử dụng và chuyển thành tiếng Việt với những cách hiểu còn khác nhau. Một số tác giả cho rằng, khái niệm thích hợp hơn cả là khái niệm “chủ nghĩa hiến pháp” và cùng với đó là khái niệm “tư tưởng hiến pháp[6]. Một số tác giả lại sử dụng một khái niệm khác là “chủ nghĩa hợp hiến”, “tư tưởng hợp hiến[7].
Về khái niệm “Hiến pháp”: khái niệm đó không chỉ bao hàm Hiến pháp thành văn mà có cả Hiến pháp không thành văn, như trường hợp nước Anh. Tính chất đặc thù và không phổ biến của Hiến pháp nước Anh được tạo nên bởi những yếu tố đặc thù về lịch sử, về pháp luật cũng như nền triết học và chính trị của nước này đã hình thành trong suốt chiều dài nhiều thế kỷ. Những yếu tố đó đã tác động và ảnh hưởng quyết định đến tổ chức Nhà nước của nước Anh.
Ở Anh không tồn tại một văn bản duy nhất được coi là Hiến pháp như ở các quốc gia khác cả về hình thức và về nội dung. Về hình thức, Hiến pháp nước Anh tồn tại dưới dạng phi hệ thống hóa, là một tổ hợp gồm hai bộ phận: bộ phận thành văn và bộ phận không thành văn. Đây cũng là đặc trưng chung của toàn bộ các phần khác của hệ thống pháp luật của nước Anh. Tên gọi “Hiến pháp không thành văn” là bởi nó không “được viết” vào thành một văn bản rõ ràng. Cả phần thành văn và phần không thành văn đều có những nguồn rất khác nhau.
Phần “thành văn” gồm các đạo luật thực định (statute laws) được nghị viện Anh ban hành vào những thời điểm rất khác nhau, nhằm điều chỉnh những vấn đề ở tầm hiến pháp, nhưng không văn bản nào được coi là Luật cơ bản. Về nguyên tắc, đạo luật nào của Nghị viện Anh cũng đều được coi là luật hiến định, là Hiến pháp, vấn đề là ở mức độ quan trọng của vấn đề được văn bản đó điều chỉnh. Trên thực tế, luật thành văn là những đạo luật do Nghị viện ban hành, luật không thành văn là toàn bộ những văn bản không do Nghị viện ban hành, kể cả các bản án của Tòa án có chứa các án lệ, mặc dù chúng cũng được “viết” bằng chữ!
Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp là cơ sở đầu tiên, và không thể thiếu được của chủ nghĩa lập hiến.
Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện để bảo đảm sự an toàn của người dân, sự ổn định cao nhất của xã hội, là điều kiện bảo đảm sự chính đáng của quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước cũng như của các hành vi, các quyết định có tính quốc gia. Điều đó giải thích vì sao trong các chế độ chuyên chế và trước khi có chế độ tư bản thì không thể nói đến Hiến pháp. Chúng ta đều biết rằng, trong số các di sản của văn minh nhân loại người ta không thể không nhắc đến Luật La mã, biểu tượng bất hủ của nền văn minh châu Âu. Luật La mã ra đời trong một môi trường văn hóa đặc thù vào thời kỳ đầu của nước Cộng hòa La mã, dần dần đã phát triển thành một hệ thống phức tạp, trước hết là hệ thống tố tụng, rộng khắp, được các vương triều châu Âu sử dụng. Những đạo luật nổi tiếng thời Hoàng đế Napoleon của nước Pháp đã đặt ra nhiều chế định quan trọng thể chế hóa những tư tưởng lớn của thời đại về sự bình đẳng trước pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu tài sản tư nhân đã được định chế từ thời Luật La mã.
Tuy nhiên, Luật La mã và những đạo luật nổi tiếng đó chưa bao giờ đạt được tầm hiến định vấn đề hạn chế quyền lực đối với bộ máy hành pháp, càng không thể động chạm đến những đặc quyền của các Hoàng đế và bộ máy của họ. Nói khác đi, một hệ thống pháp luật đại diện cho một nền văn minh thời đó vẫn chưa đủ để vươn tới ý tưởng, theo đó Nhà nước phải chịu sự ràng buộc của pháp luật – yếu tố cốt lõi của tư tưởng về Nhà nước pháp quyền.
Một lần nữa, chúng ta cần nhắc lại lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 3/9/1945. Người nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ[8]. Và do đó chỉ một thời gian rất ngắn sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, ngày khai sinh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã được ban hành – Hiến pháp năm 1946. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự hiện diện của Hiến pháp là tiền đề và bảo đảm không thể thiếu được cho tự do của con người và dân chủ của xã hội. Nhưng để Hiến pháp hoàn thành được sứ mệnh đó thì, như Lênin đã nói, “Hiến pháp pháp lý” phải trở thành “Hiến pháp thực tế” trong cuộc sống. Điều này có nghĩa rằng, nói chủ nghĩa lập hiến thì không thể chỉ dừng lại ở việc ban hành Hiến pháp mà chủ nghĩa lập hiến còn phải đi tiếp con đường chân chính của nó là bảo đảm tuân thủ Hiến pháp, tôn trọng, bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm để mọi quyết sách của Nhà nước, hành vi của người thực thi quyền lực nhà nước, của công dân phải phù hợp với Hiến pháp.
 Như vậy, khái niệm “chủ nghĩa lập hiến” hàm chứa trong đó trước hết sự hiện diện của Hiến pháp (thành văn và không thành văn), ảnh hưởng và hiệu lực của nó đối với đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia, là yêu cầu về bảo đảm tính hợp hiến, là nhận thức và sự tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và liền theo đó là yêu cầu về sự kiểm tra, giám sát để bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp. Chủ nghĩa lập hiến, vì vậy, là một cấu trúc hoàn chỉnh của ba yếu tố hợp thành: Hiến pháp – thực hiện Hiến pháp – ý thức về Hiến pháp.
Chủ nghĩa lập hiến với dân chủ và quyền con người
Có nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ (democracy), tuy nhiên, từ một góc độ tiếp cận, có thể hiểu dân chủ là một phương thức cầm quyền cho phép các cá nhân, các nhóm và tất cả các chủ thể khác nhau trong xã hội có những cơ hội bình đẳng để tham gia các tiến trình và hoạt động chính trị một cách đầy đủ và thực sự. Như vậy, xét bản chất, dân chủ và chủ nghĩa lập hiến chia sẻ quan điểm chung về vị trí, vai trò của nhân dân, và về tính tối cao, toàn diện, không hạn chế của quyền lực nhân dân. Trong đó, Hiến pháp là sản phẩm của thể chế dân chủ, song đồng thời là công cụ để hiện thực hóa thể chế dân chủ, là bệ đỡ của nền dân chủ. Chủ nghĩa lập hiến phản ánh và vạch ra phương hướng để thể chế hóa tư tưởng dân chủ vào Hiến pháp, qua đó góp phần hiện thực hóa thể chế dân chủ.
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần năm mươi định nghĩa về quyền con người đã được công bố, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con ngườithường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm nhằm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) nào làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. [9]
Quan hệ giữa chủ nghĩa lập hiến và quyền con người thể hiện qua hai khía cạnh chính: Thứ nhất, chủ nghĩa lập hiến cổ súy cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thông qua việc xác lập nguyên tắc tối thượng là quyền lực nhà nước do nhân dân trao cho và chịu sự giám sát của nhân dân. Từ nguyên tắc này, các quyền con người, quyền công dân là cấu phần không thể thiếu và đặc biệt quan trọng trong Hiến pháp hiện đại của các quốc gia. Thứ hai, quyền con người, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị, góp phần bảo đảm tính thực tế của chủ nghĩa lập hiến. Thông qua việc thực thi các quyền dân sự, chính trị, người dân tham gia vào việc giám sát, kiểm soát hoạt động của nhà nước, đó là bảo đảm cho nguyên tắc về chủ quyền tuyệt đối của nhân dân, nguyên tắc quyền lực nhà nước là có giới hạn và phải được kiểm soát mới được bảo đảm.
3. Hiến pháp năm 2013 – cơ sở cho sự đổi mới nhận thức tiếp theo về Hiến phápĐể thi hành Hiến pháp, đưa Hiến pháp vào cuộc sống, từ góc độ của lý luận vềHiến pháp, cần tiếp tục có những nỗ lực nhận thức về những giá trị mới của Hiến pháp năm 2013.
Là Luật cơ bản của nước Công hòa XHCN Việt Nam và với vị trí pháp lý cao nhất, bằng cả lời văn và tinh thần của nó, Hiến pháp năm 2013 có sứ mệnh tạo nền tảng pháp lý vững chắc và động lực mạnh mẽ cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội và sinh hoạt quốc gia trên nền tảng dân chủ, pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam phản ảnh nhu cầu bức xúc của sự phát triển mọi mặt của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập, bảo đảm sự phù hợp với các giá trị căn bản của thời đại.
Sự khẳng định tôn trọng Hiến pháp đã trở thành một nguyên tắc xuyên suốt của tư tưởng Nhà nước pháp quyền về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, và sự minh bạch của nhà nước, khẳng định quyền lực của nhân dân như là lá chắn cho việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc chủ đạo của chế độ pháp quyền là nguyên tắc về sự tối thượng của Hiến pháp, là thể hiện sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, quyền của nhân dân kiểm soát Nhà nước. Nhà nước chịu sự ràng buộc của Hiến pháp là chịu sự ràng buộc của Nhân dân. Quyền của nhân dân đối với Nhà nước là quyền của chủ nhân - quyền thực hiện khả năng kiểm soát và giám sát người được giao quyền, được ủy quyền. Đó là một nguyên lý chắc chắn không thể nghi ngờ hoặc tranh cãi.
Cùng với nhận thức về chủ quyền của nhân dân, sự nhận thức về vị trí, vai trò của Hiến pháp ngày càng đầy đủ hơn, rằng, Hiến pháp phải phản ánh, bảo đảm và bảo vệ những lợi ích sống còn của các lực lượng xã hội làm nền tảng pháp lý cho đường lối chính trị chủ đạo nhằm phát triển đất nước và xã hội. Hiến pháp luôn luôn là cơ sở pháp lý của toàn xã hội nhằm ghi nhận và thể hiện những lợi ích tương hợp của các tầng lớp xã hội, lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc.
Hiến pháp năm 2013 cho thấy rằng, con người, quyền con người là giá trị định hướng quan trọng nhất của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam hiện đại. Về mặt cơ cấu hình thức, vấn đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được chuyển dịch từ vị trí chương V trong Hiến pháp lên vị trí Chương II, chỉ sau Chương I về chế độ chính trị. Nhưng trước hết, quyền con người là nội dung được bổ sung ngay trong chương I của Hiến pháp. Hơn thế nữa, tại rất nhiều chương điều khác, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân cũng hiện diện trong nội dung chức năng và nhiệm vụ của các thiết chế nhà nước như Quốc hội (Điều 70, khoản 14); Chính phủ (Điều 96, khoản 6); Tòa án nhân dân (Điều 102, khoản 3); Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107, khoản 3). Đây là những nội dung hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1992 khi Hiến pháp 2013 trao những chức năng, nhiệm vụ cho các thiết chế, quyền lực nhà nước tương ứng.
Cội nguồn của tư tưởng hiến định về quyền con người đã được xác lập từ buổi bình minh của chế độ ta trong Tuyên ngôn độc lập bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 02-9-1945. Hiến pháp năm 2013 phát đi một tín hiệu rõ ràng và dứt khoát về nhận thức đó như việc chuyển dịch vị trí trong Hiến pháp, sửa đổi tên chương và hiến định tối đa các chuẩn mực pháp lý quốc tế của nội dung các quyền con người, quyền công dân. Đây là sự chuyển biến không chỉ về hình thức, vị trí, mặc dù cũng rất quan trọng, mà là sự chuyển biến nhận thức của tư duy lập hiến. Tư tưởng coi trọng và bảo vệ quyền con người đã được phản ánh xuyên suốt nội dung của Hiến pháp, là cơ sở để xây dựng các cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực. Đó sẽ còn là định hướng cho việc tiếp tục cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Chẳng hạn, có thể thấy những điểm mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khi Hiến pháp năm 2013 khẳng định những nguyên tắc của một nền tư pháp hiện đại như nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại bản án; nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Đây là những nguyên tắc phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân. Từ góc độ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể thấy Hiến pháp năm 2013 đã làm đậm nét tính pháp quyền của nền tư pháp nước ta.
Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn, chuẩn xác hơn và phong phú hơn nội dung một số quyền và tự do trước đây đã được đề cập nhưng chưa rõ, chưa chính xác, chưa đầy đủ so với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và thực tiễn ở nước ta. Theo đó, lần đầu tiên ở nước ta đã hiến định đầy đủ nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội hình sự: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Khoản 1, Điều 31).
Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật trong Tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của Tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, (Điều 11.1); Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Khoản 2, Điều 14). Đặc biệt bản Tuyên ngôn nêu trên đã coi nguyên tắc này là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Những nội dung trên đây có thể được coi là một điểm nhấn của Hiến pháp năm 2013 mang đậm nét cách tiếp cận về quyền.
Một trong những nỗ lực đáng chú ý của khoảng trên một thập niên trở lại đây trong khoa học luật Hiến pháp Việt Nam là việc nghiên cứu về cơ chế tài phán Hiến pháp ở Việt Nam. Những nỗ lực nghiên cứu đó chưa đủ sức tạo ra những căn cứ và đề xuất thật sự thuyết phục cho sự ra đời của một cơ chế giám sát Hiến pháp có tính tài phán cao. Tương tự như vậy, một vấn đề hết sức bức xúc hiện nay trong các vấn đề quản trị quốc gia là vấn đề về chính quyền địa phương. Những đề xuất khác nhau với sự cọ xát các khuynh hướng cải cách, các cách nhìn về quản trị địa phương thêm một lần nữa cho thấy chúng ta cần có một quan điểm lý thuyết rõ ràng làm nền tảng cho cải cách quản trị địa phương ở nước ta.

 


[1] “Bình luận khoa học Hiến pháp năm 1980” (Chủ biên: Nguyễn Ngọc Minh, NXB Khoa học xã hội 1985); “Bình luận khoa học Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992” (Chủ biên: Đào Trí Úc, NXB Khoa học xã hội, 1995).
 
[2] “Hiến pháp – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tập thể tác giả Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội (sách chuyên khảo), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. “Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước trên thế giới” (Sách chuyên khảo) do Ban biên tập Dự thảo sửa đổi Hiến pháp ấn hành, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012; “Tài phán Hiến pháp: một số vấn đề cơ bản, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam” (Sách chuyên khảo), Nguyễn Như Phát chủ biên, NXB Khoa học xã hội, 2011; “Quy trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam: thực trạng và kiến nghị” (Sách tham khảo) do Trung tâm nghiên cứu khoa học thuộc Viện nghiên cứu lập pháp xuất bản năm 2011.
[3] Đào Trí Úc: “Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam” – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2007; Nguyễn Đăng Dung: “Học thuyết tam quyền hay nhị quyền phân lập”-Tạp chí Luật học, số 10/2009; “Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của từng cơ quan Nhà nước Việt Nam”, NXB Tư pháp, 2004.
 
[4] Xem Viện Chính sách công và Pháp luật: “Các thiết chế hiến định độc lập – Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam” (GS.TSKH.Đào Trí Úc, GS.TS.Nguyễn Thị Mơ, TS.Nguyễn Văn Thuận, TS.Vũ Công Giao đồng Chủ biên, NXB ĐHQG HN, 2013).
[5] Nghị quyết 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của BCT “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
[6] GS.TS Nguyễn Đăng Dung “Những quan điểm học thuyết hiện đại về Hiến pháp”. Trong cuốn: “Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp – những vấn đề lý luận và thực tiễn” NXB Đại học Quốc gia HN, 2012
[7] Th.s Bùi Ngọc Sơn: “Chủ nghĩa hợp hiến chuyển đổi và những hàm ý cho sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam” Trong cuốn: “Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp – những vấn đề lý luận và thực tiễn” NXB Đại học Quốc gia HN. 2012
 
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB Sự thật, Hà Nội, 1984, tr.6
 
[9] OHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr.1. Trích từ Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, sđd, tr.37.
 

 [c1]Khoa Luật – ĐHQGHN đã có bộ môn Luật Hiến pháp độ khoảng 16 năm rồi.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 12(268), tháng 6/2014)