Hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự để thực hiện quy định: “quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”

01/06/2015

ThS, GV. NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG

Trường Đại học Luật, Đại học Huế

Nếu như vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được Hiến pháp năm 1959 ghi nhận thì vấn đề bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự mới lần đầu được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Quy định này được xem là nguyên tắc định hướng cơ bản, xuyên suốt quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Bài viết đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện có hiệu quả quy định quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự. 
Untitled_230.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Khái niệm bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
Trước đó, Điều 9 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (Bộ luật TTDS) quy định bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự cũng là bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự.   
Thực hiện tốt quyền bảo vệ của đương sự là cơ sở để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, góp phần giải quyết vụ án chính xác, khách quan. Đặc biệt, hoạt động tố tụng dân sự thường phức tạp, rất nhạy cảm với khả năng xâm phạm quyền tố tụng nói chung, trong đó có quyền bảo vệ của đương sự. Vì vậy, pháp luật chỉ ghi nhận thôi thì chưa đủ, mà cần phải thiết lập các cơ chế, các biện pháp bảo đảm thực hiện hữu hiệu và bảo vệ chúng trong trường hợp bị xâm phạm. Nếu không thì quy định này chỉ tồn tại trong văn bản luật và việc ghi nhận chỉ giải quyết về mặt hình thức.  
Theo Từ điển tiếng Việt thì “bảo đảm” nghĩa là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết[1]. “Quyền” là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận đối với cá nhân, tổ chức, để theo đó, cá nhân, tổ chức được đòi hỏi, được làm mà không ai được ngăn cản, hạn chế[2]. Như vậy, bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự nghĩa là tổng hợp các biện pháp, cơ chế hỗ trợ làm cho các đương sự có đủ những điều kiện cần thiết, chắc chắn để thực hiện được trên thực tế quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ mình trước pháp luật.
Trên một mức độ khái quát hơn, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định: “Quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm”[3].
2. Thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự
2.1. Thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự
Nếu đương sự không có điều kiện để mời luật sư, cũng không thuộc các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý và cũng không nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình thì họ có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình.
Quyền tự bảo vệ của đương sự được pháp luật ghi nhận và tôn trọng. Nhưng trên thực tế, việc đương sự tự bảo vệ quyền lợi cho mình thường không đạt hiệu quả cao. Những vụ án đương sự tự mình bào chữa, trình tự thủ tục xét hỏi và tranh luận rất mờ nhạt, mang tính chất hình thức, chiếu lệ[4]. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một phần do đương sự thường không có kinh nghiệm, phương pháp trong việc phát biểu quan điểm của mình về đánh giá, khai thác chứng cứ. Vì vậy, trong quá trình tranh luận, đương sự nhắc lại các vấn đề đã được trình bày ở phần xét hỏi, tạo ra sự tranh luận dài dòng, không đúng mục đích. Do đó, thường bị chủ tọa phiên tòa cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án. Những lúc như thế, đương sự rất lúng túng, ảnh hưởng đến chất lượng tranh luận. Mặt khác, không phải đương sự nào cũng am hiểu tường tận các quy định về luật nội dung và luật hình thức để vận dụng linh hoạt, nhằm phát huy được quyền tự bảo vệ trong quá trình tố tụng.
Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế khả năng tự bảo vệ của đương sự vẫn là do các quy định của pháp luật. Một số quy định về thủ tục tố tụng chưa thực sự phù hợp nên không tạo được sự chủ động cho đương sự khi thực hiện quyền tự bảo vệ. Đặc biệt là các thủ tục diễn ra tại phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Xét xử là một giai đoạn tố tụng quan trọng, mang tính quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đương sự, bởi phán quyết của hội đồng xét xử đều căn cứ vào giai đoạn tố tụng này. Nhưng các thủ tục tại phiên tòa dân sự chưa được sắp xếp hợp lý, chưa trao quyền chủ động cho đương sự[5].
 Đặc trưng của tranh chấp dân sự là vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa các bên chứ không vi phạm pháp luật. Vì vậy, các bên tranh chấp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, nhưng các thủ tục tại phiên tòa dân sự vẫn được tổ chức như một phiên tòa hình sự. Có một số trường hợp, “hội đồng xét xử thực hiện việc hỏi còn nặng nề, mang tính chất mệnh lệnh như xét hỏi tại phiên tòa hình sự, nhiều khi lại tỏ thái độ lộng quyền, thiếu tôn trọng các bên đương sự, đưa ra các câu hỏi đã hàm ý mớm câu trả lời”[6]. Toàn bộ diễn biến tại phiên tòa và vai trò chủ động vẫn thuộc về hội đồng xét xử, nên đã tạo cho đương sự cảm giác phụ thuộc vào cơ quan bảo vệ pháp luật, dẫn đến việc đương sự ngại tự mình trình bày quan điểm mà đợi sự xét hỏi từ phía hội đồng xét xử. Đương sự chưa chủ động đưa ra yêu cầu và chứng minh cho yêu cầu của mình. Chất lượng của quá trình tranh luận ảnh hưởng đến việc thực hiện có hiệu quả quyền tự bảo vệ của đương sự.
 Do đó, cần phải thay đổi các thủ tục và các hoạt động tố tụng trong mỗi thủ tục tại phiên tòa xét xử để phù hợp với các tranh chấp dân sự; tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho đương sự khi thực hiện quyền tự bảo vệ. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp “đổi mới tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[7].  
2.2. Thực tiễn bảo đảm thực hiện quyền nhờ người khác bảo vệ
Có thể nói rằng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có vai trò quan trọng trong việc giúp cho đương sự hiểu đúng và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trước pháp luật, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định của Bộ luật TTDS, đương sự có thể nhờ luật sư, trợ giúp viên pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý, công dân Việt Nam thỏa mãn các điều kiện luật định bảo vệ quyền,  lợi ích hợp pháp cho mình[8].
Đảm bảo quyền nhờ người khác bảo vệ cũng là cơ sở để đảm bảo giải quyết vụ án được chính xác, khách quan. Thực tế đã chứng minh rằng, nhiều trường hợp không có sự tham gia của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự thì đương sự cũng không biết trình bày những nội dung nào và tranh luận như thế nào để làm nổi bật vấn đề, đảm bảo quá trình tranh luận đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, các quy định về quyền nhờ người khác bảo vệ cho đương sự còn nhiều hạn chế. Các quy định của Bộ luật TTDS chưa thực sự hỗ trợ cho người bảo vệ phát huy được chức năng của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của việc bảo vệ. Cụ thể:
- Ở giai đoạn hòa giải, theo quy định tại khoản 3 Điều 64 Bộ luật TTDS, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được quyền tham gia phiên hòa giải. Nhưng tại Điều 184 Bộ luật TTDS quy định về thành phần phiên hòa giải không quy định cho người bảo vệ tham gia ở giai đoạn này. Vì vậy, mỗi Tòa án có một cách áp dụng khác nhau, thậm chí cùng một Tòa án nhưng có vụ án thì thẩm phán thông báo cho người bảo vệ của đương sự tham gia tố tụng, vụ án khác thì không. Như vậy, việc tham gia tố tụng ở giai đoạn hòa giải đáng lẽ là quyền của người bảo vệ cho đương sự, nhưng được tham gia hay không phải phụ thuộc vào ý chí của thẩm phán giải quyết vụ việc. Mặc dù đây là một trong những điều luật đã được sửa đổi năm 2011, nhưng  cũng chỉ mới khắc phục được phần nào bất cập. Chính những quy định không thống nhất, mâu thuẫn này đang là rào cản cho người bảo vệ quyền lợi của đương sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Ở giai đoạn xét xử, do truyền thống tố tụng dân sự của Việt Nam là tố tụng xét hỏi, nên trước khi mở phiên tòa thì hầu hết các tài liệu, chứng cứ quan trọng liên quan đến vụ án đều được phản ánh đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Do đó, thành viên hội đồng xét xử thường chủ quan, xem nhẹ thủ tục tranh luận. Thẩm phán chưa thực sự tạo điều kiện cho các bên tranh luận, đánh giá không đúng vai trò tham gia của người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Do đó, vai trò của người bảo vệ rất mờ nhạt gây khó khăn cho hoạt động bào chữa để bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Có quan điểm cho rằng, chừng nào chưa thấy được sự tham gia tố tụng của luật sư như một đối trọng, một hình thức giám sát đối với hoạt động của cơ quan và người tiến hành tố tụng thì sự hiện diện của luật sư chỉ là “một thứ trang điểm” để tố tụng có vẻ dân chủ, có vẻ văn minh mà thôi[9]. Thực tế, nếu chỉ cứ căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì không thể phản ánh được tính chính xác, khách quan của vụ việc. Do đó, cần xây dựng một số quy chế ràng buộc để nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của hội đồng xét xử.
Mặt khác, khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTDS quy định, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu tòa án xét thấy cần thiết. Vì điều luật quy định không cụ thể nên việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia vào phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm phụ thuộc vào ý chí chủ quan của tòa án, điều này dễ dẫn đến việc tuỳ tiện khi áp dụng. Thiết nghĩ, cần có quy định cụ thể đối với trường hợp có người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự đối với phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
Vấn đề nữa mà pháp luật cũng không quy định, đó là thủ tục để người bảo vệ cho đương sự tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm như thế nào? Bởi vì theo quy định tại khoản 2 Điều 292 Bộ luật TTDS quy định về những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm: “Khi xét thấy cần thiết, tòa án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm”;  và theo khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTDS thì người bảo vệ cho đương sự được quyền tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Những người tham gia tố tụng khác có thể là người bảo vệ cho đương sự. Theo quy định của pháp luật, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự phải là người được đương sự nhờ và được tòa án chấp nhận tham gia tố tụng. Sự chấp nhận của tòa án được thể hiện bằng việc tòa án sẽ cấp giấy chứng nhận là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự. Như vậy, trong trường hợp người bảo vệ cho đương sự tham gia ở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm thì có cần phải tiến hành làm lại thủ tục để được công nhận hay căn cứ vào giấy chứng nhận đã được tòa án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm cấp trước đó? Vấn đề này hiện nay đang tồn tại hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất, không cần làm lại thủ tục vì khi hội đồng xét xử cấp giám đốc thẩm, tái thẩm yêu cầu người bảo vệ quyền lợi của đương sự tham gia mục đích là để xác minh lại các tình tiết, sự kiện đã diễn biến các phiên tòa trước đó chứ không phải là để phát biểu quan điểm bảo vệ cho đương sự. Nếu hiểu theo cách này là không hợp lý, vì ai sẽ trả chi phí cho người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong trường hợp này?
Quan điểm thứ hai, phải làm lại thủ tục để được tòa án chấp nhận là người bảo vệ cho đương sự. Vì phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm, người bảo vệ cho đương sự vẫn trình bày các quan điểm để bảo vệ cho đương sự đã nhờ mình. Có thể có trường hợp đương sự không bằng lòng với những người đã được đương sự nhờ trước đó nên muốn nhờ một người khác để bảo vệ tốt hơn cho mình.
Theo chúng tôi, cách hiểu thứ hai là hợp lý hơn, vì nó thể hiện toàn diện, đầy đủ nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự và phù hợp với bản chất của quan hệ dân sự. Tuy nhiên, để áp dụng một cách thống nhất thì cơ quan có thẩm quyền phải ban hành văn bản hướng dẫn.  
3.  Kiến nghị một số giải pháp
3.1. Sửa đổi các quy định:
Thứ nhất, như đã đề cập ở trên, để đảm bảo tính chủ động, phát huy có hiệu quả quyền tự bảo vệ của đương sự, cần phải thay đổi thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm theo hướng sau: thủ tục bắt đầu, thủ tục tranh luận, thủ tục xét hỏi, thủ tục nghị án và thủ tục tuyên án. Bên cạnh đó, các hoạt động tố tụng trong mỗi thủ tục cũng phải được điều chỉnh cho phù hợp (chủ yếu là điều chỉnh thủ tục bắt đầu, thủ tục tranh luận, thủ tục xét hỏi).
Đối với thủ tục bắt đầu: vẫn tiến hành theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 213 Bộ luật TTDS, nhưng sau khi chủ tọa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có thay đổi ai không. Bước tiếp theo chủ tọa phiên tòa hỏi luôn xem đương sự có yêu cầu gì không (tức là có mong muốn thỏa thuận với nhau không và có thay đổi, bổ sung, rút một phần hay toàn bộ yêu cầu không). Vấn đề này là quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự đã được tòa án phổ biến trong phần “phổ biến quyền và nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác”[10]. Cho nên đương sự phải ý thức và chủ động đề xuất với hội đồng xét xử. Như vậy, Điều 217 Bộ luật TTDS quy định hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu được lồng vào thủ tục bắt đầu. Như thế, bước đầu đương sự đã chủ động được diễn biến của phiên tòa và chủ động trong các hoạt động tố tụng tiếp theo để tự bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất.
Đối với thủ tục tranh luận: hội đồng xét xử không phải là chủ thể tranh luận cho nên không tham gia vào quá trình tranh luận. Nhưng với vai trò là người tiến hành tố tụng định hướng cho quá trình tranh luận có hiệu quả nên trước khi bước vào tranh luận, hội đồng xét xử yêu cầu các bên thống nhất các mâu thuẫn, tranh chấp cần tranh luận để cuộc tranh luận được tiến hành trọng tâm. Như thế, trong Mục 4 Bộ luật TTDS quy định về tranh luận tại phiên tòa nên bổ sung thêm một điều luật điều chỉnh vấn đề này theo hướng sau: “Trước khi tranh luận, hội đồng xét xử yêu cầu các bên đương sự thống nhất các tranh chấp, mâu thuẫn cần làm sáng tỏ. Các bên đương sự tranh luận về những vấn đề đã thống nhất và phát biểu quan điểm của mình về đánh giá chứng cứ, về việc giải quyết vụ án”. Như vậy, đương sự sẽ chủ động trong việc đưa ra yêu cầu và chứng minh cho yêu cầu của mình. Các hoạt động tố tụng tiếp theo của thủ tục tranh luận vẫn tiến hành theo quy định của Bộ luật TTDS.
Đối với thủ tục xét hỏi: Sau khi tranh luận, chúng ta mới tiến hành thủ tục hỏi. Ở giai đoạn này, hội đồng xét xử chỉ hỏi những vấn đề mà hội đồng xét xử thấy rằng đã qua thủ tục tranh luận nhưng chưa rõ và hỏi nguyện vọng của các bên đương sự về việc giải quyết vụ án để chuẩn bị cho thủ tục nghị án. Sự thay đổi này vừa tạo tâm lý chủ động cho đương sự từ đầu, đồng thời giải quyết được phần khúc mắc của tòa án nếu muốn hỏi những tình tiết chưa rõ.
Sự thay đổi các bước trong thủ tục nói trên vừa tiết kiệm thời gian, vừa đảm bảo tính khoa học trong quá trình xét xử. Đồng thời, giải quyết được khuyết điểm về thực tiễn mà một số thẩm phán hay mắc phải là không có sự phân biệt rõ ràng giữa thủ tục xét hỏi và tranh luận. Cũng có trường hợp ranh giới giữa phần hỏi và phần tranh luận không rõ ràng, chủ tọa để cho nguyên đơn, bị đơn tranh luận trong quá trình hỏi, dẫn đến sự thiếu nghiêm túc của đương sự hoặc thiếu sự tôn trọng người khác, kể cả hội đồng xét xử, luật sư và kiểm sát viên tham gia phiên tòa[11].
Thứ hai, tại Điều 184 Bộ luật TTDS quy định về thành phần tham dự phiên hòa giải phải bổ sung thêm chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ ba, việc giải quyết chính xác, khách quan của vụ án phụ thuộc nhiều vào sự tham gia của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, tại Điều 64 quy định về quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự, nên bổ sung thêm một điều khoản: “Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án khi được phép của tòa án hoặc đề xuất với tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác hoặc yêu cầu đối chất giữa các đương sự nếu cần thiết”.
Thư tư, để đảm bảo quyền lợi cho đương sự và cũng là đảm bảo cho quy định người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm có tính khả thi trên thực tế, chúng ta nên quy định: “đối với các quyết định kháng nghị theo thủ tục bất lợi cho đương sự thì hội đồng xét xử phải triệu tập người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia phiên tòa”.
Đồng thời quy định thủ tục để người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng: nếu vẫn là người đã được đương sự nhờ bảo vệ quyền lợi cho mình ở các phiên tòa trước đó thì chỉ cần xuất trình giấy chấp nhận của tòa án ở các cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Nếu đương sự nhờ người khác bảo vệ quyền lợi cho mình thì mới làm lại thủ tục để được tòa án chấp nhận.
3.2. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
Bảo đảm thực hiện quyền bảo vệ của đương sự không chỉ phụ thuộc vào đương sự và người được đương sự nhờ bảo vệ quyền lợi cho mình mà còn phụ thuộc vào cách nhìn, cách đánh vai trò quyền bảo vệ của đương sự từ phía người tiến hành tố tụng. Để tránh tình trạng một số thẩm phán xem nhẹ thủ tục tranh luận, không chú ý lắng nghe các luận điểm mà người bảo vệ quyền lợi của đương sự và đương sự trình bày để bảo vệ quyền lợi của mình, thiết nghĩ, cần đặt ra quy chế đối với vấn đề này. Cụ thể, cần quy định: trong biên bản phiên tòa do thư ký ghi phải quy định ghi rõ ràng, đầy đủ các vấn đề người bảo vệ quyền lợi trình bày tại phiên tòa. Nếu bản án, quyết định đó bị đương sự kháng cáo hoặc viện kiểm sát kháng nghị có liên quan đến vấn đề mà người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đương sự đã trình bày, được thư ký ghi trong biên bản phiên tòa, nhưng trong bản án hoặc quyết định của tòa án cấp sơ thẩm không ghi nhận mà bản án phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm ghi nhận thì cần phải xem xét trách nhiệm của hội đồng xét xử trong trường hợp này./.  

* ThS, GV. Trường Đại học Luật - Đại học Huế
[1] Nguyễn Kim Thân (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
[2] Nguyễn Kim Thân (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
[3] Khoản 7 Điều 103, Hiến pháp năm 2013,
[4] Bùi Thị Huyền, Phiên tòa sơ thẩm dân sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.175.
[5] Theo quy định tại Chương XIV “Phiên tòa sơ thẩm” của Bộ luật TTDS, các thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm bao gồm: Thủ tục bắt đầu phiên tòa; Thủ tục hỏi tại phiên tòa; Thủ tục tranh luận; Thủ tục nghị án và tuyên án.
[6] Nguyễn Hải An, Thực tiễn tranh tụng trong các phiên tòa dân sự và một số vấn đề đặt ra, Kỷ yếu hội thảo: Vấn đề tranh tụng trong tố tụng dân sự, do Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp tổ chức ngày 5/3/2004, Hà Nội, tr. 4.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[8] Điều 63, Bộ luật TTDS.
[9] Kim Anh, Khó khăn của luật sư trước hội nhập, Báo Hà Nội mới, số ra ngày 23/10/2006.
[10] Khoản 3 Điều 231 Bộ luật TTDS.
[11] Nguyễn Hải An, Thực tiễn tranh tụng trong các phiên tòa dân sự và một số vấn đề đặt ra, tlđd.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12(292), tháng 6/2015)