Góp ý Dự thảo Luật Ban hành văn bản pháp luật

01/05/2015

ThS. HUỲNH THỊ SINH HIỀN

Giảng viên Đại học Cần Thơ

Dự thảo Luật Ban hành văn bản pháp luật (Dự luật) đã được trình Quốc hội khóa XIII thảo luận tại Kỳ họp thứ 8. Dù đã có nhiều cố gắng, song Dự luật còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu thấu đáo, kỹ lưỡng để xứng tầm là một dự luật mẹ. Bài viết tập trung thảo luận các vấn đề về tên gọi của Dự luật, khái niệm văn bản pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật, từ đó đưa ra các đề xuất góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật lập pháp của Dự luật.  
 Untitled_236.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Về tên gọi của Dự luật
Trong học thuật cũng như thực tiễn gần 20 năm thực hiện hai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), ban hành năm 1996 và 2008, VBQPPL được hiểu là văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật (quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận). Trong khi đó, khái niệm văn bản pháp luật (VBPL) được hiểu là các văn bản có tính pháp lý bao gồm VBQPPL, văn bản áp dụng pháp luật (văn bản cá biệt) và cả văn bản hành chính thông thường như công văn, công điện, ...[1]. Với tên gọi Luật Ban hành văn bản pháp luật thì phạm vi điều chỉnh của Dự luật phải rất rộng, bao gồm tất cả các loại văn bản nói trên trong khi tính chất cũng như thủ tục ban hành các loại văn bản này hoàn toàn khác nhau. Tuy vậy, khi định nghĩa VBPL, Dự thảo gần như giữ nguyên định nghĩa về VBQPPL và vẫn coi đó là những văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung. Theo đó, tất cả các văn bản có tính chất pháp lý mà không chứa đựng quy tắc xử sự chung phải không được nhìn nhận như là VBPL. Cách định nghĩa này không phù hợp với thực tiễn khoa học pháp lý và không đáp ứng đòi hỏi của Điều 7 Dự luật: “ngôn ngữ sử dụng trong VBPL phải chính xác và phổ thông”[2].
Có quan điểm cho rằng, việc sửa lại tên Dự luật thành Luật Ban hành VBPL cho thống nhất với cách dùng từ của Hiến pháp năm 2013 và cho gần gũi với các cơ quan, tổ chức và người dân[3]. Theo cách hiểu hiện nay, từ văn bản pháp luật được dùng trong Hiến pháp với nghĩa chung, có thể bao gồm văn bản cá biệt, văn bản quy phạm hoặc văn bản hành chính. Cách dùng từ như vậy sẽ đảm bảo cho Hiến pháp có được tính ổn định, hạn chế tối thiểu sự sửa đổi. Mặt khác, đặc trưng của Luật này thể hiện ở chỗ, chủ thể chịu sự điều chỉnh của nó là các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền nhân danh Nhà nước đặt ra pháp luật để quản lý xã hội. Do đó, việc sửa đổi tên luật cho gần gũi với tổ chức và người dân sẽ không cần thiết bằng việc phải đảm bảo tính chính xác và khoa học để giữ nguyên tên luật là Luật ban hành VBQPPL.
2. Về định nghĩa văn bản pháp luật
Theo Dự luật: “Văn bản pháp luật là văn bản có chứa quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi cả nước hoặc địa giới hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này và được Nhà nước đảm bảo thực hiện”. Dự luật định nghĩa VBPL theo phương thức liệt kê đầy đủ các điều kiện mà một văn bản thỏa mãn thì được coi là văn bản pháp luật. Trong số đó, có các điều kiện quan trọng không thể thiếu, nhưng cũng có những điều kiện là sự đòi hỏi không chính xác hoặc thậm chí dư thừa.
Thứ nhất, điều kiện: chứa đựng quy tắc xử sự chung. Dự luật định nghĩa VBPL là văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung là không hợp lý. Nếu chỉ xét ở phương diện ghép nối từ ngữ thì quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành được hiểu là quy phạm pháp luật và văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung này phải là VBQPPL chứ không thể là VBPL.
Thứ hai,điều kiện: có hiệu lực bắt buộc chung. Việc đưa ra điều kiện này làm cho định nghĩa trở nên vừa thừa lại vừa thiếu. Một mặt, bản thân việc chứa quy tắc xử sự chung đã bao hàm tính có hiệu lực bắt buộc chung. Mặt khác, các quy tắc xử sự chung không phải lúc nào cũng có tính bắt buộc mà còn có thể bao gồm cấm đoán, cho phép hoặc gợi ý. Ví dụ quy tắc xử sự: “Công dân Việt Nam đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân” không mang tính bắt buộc mà là cho phép chung. Trường hợp này, dường như ý tưởng của người soạn thảo sẽ được diễn đạt chính xác hơn nếu dùng từ ràng buộc chung thay cho từ bắt buộc chung. Tuy nhiên, như đã đề cập, bản thân điều kiện chứa đựng quy tắc xử sự chung đã bao gồm tính ràng buộc chung, do đó chúng ta không cần lặp lại điều kiện này.
Thứ ba, điều kiện: được áp dụng nhiều lần đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi cả nước hoặc địa giới hành chính nhất định.Đây là những điều kiện không rõ ràng và mâu thuẫn. Một mặt, để được coi là VBPL thì văn bản đó phải được áp dụng nhiều lần. Nếu một văn bản sau khi được ban hành mà chưa được áp dụng lần nào hoặc chỉ được áp dụng một lần thì có được coi là VBPL hay không? Trái lại, để được áp dụng thì văn bản đó phải là VBPL có hiệu lực, người áp dụng pháp luật căn cứ vào các quy tắc xử sự trong văn bản để giải quyết các tình huống thực tế. Bởi vì VBPL chứa đựng quy tắc xử sự chung nên văn bản đó có đặc tính áp dụng được nhiều lần mà không làm mất đi hiệu lực chứ không phải một văn bản được áp dụng nhiều lần thì được xem là VBPL. Bên cạnh đó, thuộc tính được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi cả nước hoặc địa giới hành chính nhất định cũng không rõ ràng. Trên thực tế, chúng ta khó tìm thấy một  VBQPPL nào đó được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức trong cả nước hoặc địa phương. Đúng hơn là, mỗi VBQPPL có đối tượng tác động riêng của nó, đó chính là các cá nhân, tổ chức chịu sự điều chỉnh của VBQPPL đó.  Ví dụ Luật Cán bộ, công chức chỉ được áp dụng đối với những ai là cán bộ, công chức, thậm chí Bộ luật Hình sự cũng chỉ có khả năng áp dụng đối với những cá nhân đủ 14 tuổi trở lên khi có hành vi phạm tội. Đặc biệt, các VBQPPL là thông tư của Chánh án TANDTC hay Viện trưởng VKSNDTC thì càng khó có thể được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức trong phạm vi cả nước hoặc địa giới hành chính nhất định mà chủ yếu đối với các cá nhân, tổ chức trong ngành Tòa án và Viện kiểm sát.  Mặt khác, xem xét hiệu lực về đối tượng của VBQPPL chúng ta thấy, các văn bản có thể tác động đến các đối tượng ở ngoài phạm vi lãnh thổ một nước (trên lãnh thổ quốc gia khác hoặc lãnh thổ quốc tế). Ví dụ: Điều 6 của Bộ luật Hình sự hiện hành có quy định về hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, qua phân tích có thể thấy điều kiện trên là không chính xác và cũng không cần thiết để có mặt trong định nghĩa VBPL.
Thứ tư, điều kiện: do cơ quan nhà nước ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này.Đây được coi là điều kiện cần thiết vì văn bản chứa quy tắc xử sự chung dùng điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội cần phải được ban hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, cách định nghĩa như vậy sẽ trở nên không còn chính xác nếu hệ thống VBPL quy định tại Điều 3 của Dự luật liệt kê khá nhiều loại VBPL do cá nhân ban hành. Ví dụ như lệnh và quyết định của Chủ tịch nước, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Có thể lý giải Chủ tịch nước được hiểu đồng thời vừa là cá nhân vừa là cơ quan nhà nước và văn bản của bộ sẽ đồng thời là văn bản của bộ trưởng vì bộ là cơ quan nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thủ trưởng lãnh đạo. Tuy nhiên, Dự luật cho phép Chính phủ có quyền ban hành nghị định còn Thủ tướng Chính phủ - người đứng đầu Chính phủ ban hành quyết định. Trong trường hợp này, Thủ tướng Chính phủ không thể được xem là cơ quan nhà nước khác với Chính phủ. Liên quan đến điều kiện được ban hành theo đúng hình thức, trình tự, thủ tục của VBPL, chúng tôi cho rằng, đây là điều kiện cần thiết vì văn bản chứa đựng quy tắc xử sự cho nhiều người trong xã hội nên cần được ban hành dưới hình thức xác định cũng như với thủ tục nghiêm ngặt. Tuy nhiên, đồng tình với ý kiến cho rằng, bản thân việc ban hành văn bản theo đúng thủ tục đương nhiên đã bao gồm việc phải đúng trình tự[4]. Do vậy, định nghĩa không nhất thiết phải sử dụng hai từ “trình tự” và “thủ tục” đi liền với nhau và cụm từ “do cơ quan nhà nước ban hành” nên sửa đổi lại thành “do cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành”.
Thứ năm, điều kiện: được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây không phải là đặc trưng riêng của VBPL cũng không phải là điều kiện hợp lý để xem một văn bản là VBPL. Đã là pháp luật thì phải do Nhà nước ban hành trên cơ sở ý chí của Nhà nước và đương nhiên Nhà nước sẽ tìm mọi cách, kể cả dùng quyền lực của mình để đảm bảo cho ý chí đó được thực hiện. Đối với VBQPPL, trong quá trình soạn thảo, Nhà nước tiến hành hoạt động tham khảo kinh nghiệm làm luật của các nước và lấy ý kiến nhân dân chính là nhằm đảm bảo cho văn bản đó có tính khả thi cao. Nếu nhìn nhận dưới góc độ này thì một VBQPPL được ban hành theo đúng thủ tục thì nó đã chứa đựng trong đó ít nhiều yếu tố được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Hơn nữa, không phải chỉ các văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung mới được Nhà nước đảm bảo thực hiện mà các văn bản cá biệt như bản án, văn bản xử phạt vi phạm hành chính cũng được Nhà nước đảm bảo thực hiện kể cả bằng cưỡng chế. Mặt khác, một văn bản chứa quy tắc xử sự chung, được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức và thủ tục nhưng vì lý do nào đó mà Nhà nước không (hoặc chưa) tiến hành các biện pháp cần thiết như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục hoặc đảm bảo việc phát hiện và xử lý sai phạm dẫn đến văn bản đó không khả thi, không được thực hiện trên thực tế thì nó vẫn được xem là VBQPPL. Như vậy, theo điều kiện này thì không dễ dàng gì cho các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân xác định một văn bản nào đó có phải là VBPL hay không vì họ phải theo cảm tính chủ quan của mình để trả lời câu hỏi “Văn bản đó có được Nhà nước đảm bảo thực hiện hay không?”  
Qua phân tích từng điều kiện trong định nghĩa của Dự luật về VBPL, thiết nghĩ Dự luật nên thay thế định nghĩa VBPL thành định nghĩa về VBQPPL như sau: VBQPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do cơ quan nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành theo đúng hình thức và thủ tục được quy định trong luật này. Thêm vào đó, Dự luật nên tách định nghĩa này ra khỏi Điều 2 về giải thích từ ngữ thành một điều luật riêng biệt vì việc quy định thế nào là VBQPPL có ý nghĩa rất quan trọng trong Dự luật này và trong cả hệ thống pháp luật quốc gia. Vì vậy, việc đánh đồng định nghĩa VBQPPL như việc giải thích các từ ngữ khác trong một VBQPPL bất kỳ là điều không nên.
3. Về hệ thống văn bản pháp luật
Khái niệm hệ thống văn bản pháp luật
Khoản 1 Điều 3 Dự luật quy định “Hệ thống VBPL phải được xây dựng đơn giản, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, chi phí tuân thủ thấp và tuân thủ nghiêm ngặt thứ bậc quy định tại khoản 2 Điều này”. Yêu cầu hệ thống VBPL phải tuân thủ nghiêm ngặt thứ bậc đã thể hiện sự tiến bộ so với Luật Ban hành VBQPPL năm 2008. Sự tiến bộ này sẽ góp phần khắc phục khó khăn trong việc kiểm tra, giám sát VBQPPL cũng như việc ưu tiên áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao hơn khi các văn bản này có chứa những quy định xung đột nhau. Tuy nhiên, quy định “Hệ thống văn bản pháp luật phải được xây dựng đơn giản, dễ tiếp cận, dễ thực hiện, chi phí tuân thủ thấp …” cho thấy có sự trùng lặp với nguyên tắc xây dựng VBPL ở Điều 4 Dự luật, bao gồm nguyên tắc khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, minh bạch … vì việc xây dựng VBPL xét cho cùng cũng chính là xây dựng hệ thống VBPL. Mặt khác, cách dùng từ chi phí tuân thủ thấp là không rõ nghĩa, có sự nhầm lẫn giữa tuân thủ và thực hiện pháp luật. Thực hiện pháp luật bao gồm tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật. Trong khi đó, tuân thủ pháp luật là kiềm chế không làm những gì mà pháp luật cấm[5]. Như vậy, làm sao có thể xác định được chi phí tuân thủ pháp luật khi tuân thủ là hành vi dưới dạng không hành động? Một vấn đề khác nảy sinh từ quy định của khoản 1 Điều 3 Dự luật là không xác định được chủ thể điều chỉnh. Ai có nghĩa vụ đảm bảo các yêu cầu trên và nếu hệ thống VBPL không được xây dựng đơn giản, dễ tiếp cận với chi phí tuân thủ cao thì trách nhiệm thuộc về ai? Có phải thuộc về các chủ thể ban hành từng văn bản cụ thể? Theo chúng tôi, Dự luật nên đưa ra định nghĩa chính thức về hệ thống VBQPPL làm cơ sở cho cơ chế kiểm tra giám sát VBQPPL như sau: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là tập hợp tất cả các văn bản quy phạm pháp luật có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau trên cơ sở đảm bảo nghiêm ngặt tính thứ bậc được quy định tại khoản 2 Điều này.
Một số văn bản trong hệ thống không chứa đựng quy tắc xử sự chung
Quy tắc xử sự được hiểu là quy tắc cho hành vi. Các chủ thể khi rơi vào hoàn cảnh được dự liệu phải xử sự thống nhất theo quy tắc đặt ra. Các quy tắc này thường tồn tại dưới dạng cấm đoán, cho phép, bắt buộc hoặc gợi ý nhằm yêu cầu chủ thể được, không được, hoặc phải thực hiện một điều gì đó. Mặc dù Dự luật định nghĩa VBPL là văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung nhưng nội dung của một số văn bản được liệt kê từ Điều 13 đến Điều 23 lại không chứa đựng quy tắc xử sự chung, điển hình như sau:
- Nghị quyết của Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đây là văn bản quyết định chính sách, kế hoạch của Nhà nước, trong thực tiễn loại văn bản này được gắn cho một cái tên là văn bản chủ đạo. Các văn bản này không chứa quy phạm pháp luật và vì vậy không trực tiếp điều chỉnh hành vi của con người mà chỉ làm cơ sở cho việc ban hành các VBQPPL khác.- Nghị quyết của Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội dùng để tạm ngưng, kéo dài, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản thuộc thẩm quyền. Theo điểm h khoản 2 Điều 13 của Dự luật, nghị quyết của Quốc hội dùng để bãi bỏ văn bản sai trái (không nhất thiết phải là VBPL)[6] của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được xem là VBPL. Tương tự, theo điểm b và e khoản 2 Điều 14 Dự luật, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội dùng để tạm ngưng, kéo dài, đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản thuộc thẩm quyền cũng là VBPL. Điều này mâu thuẫn với định nghĩa của VBPL tại khoản 1 Điều 2 vì loại văn bản này cũng không chứa đựng quy tắc xử sự chung. Theo chúng tôi, chỉ có các văn bản sửa đổi, bổ sung hay thay thế VBQPPL mới chứa quy tắc xử sự chung và điều này không xảy ra đối với loại văn bản dùng để tạm ngưng, kéo dài, đình chỉ việc thi hành hay bãi bỏ một văn bản khác. Đây chính là văn bản áp dụng pháp luật vì nó nhằm giải quyết vấn đề hiệu lực của một VBQPPL xác định. Tuy nhiên, theo quan điểm của PGS,TS. Nguyễn Cửu Việt thì đây phải là VBQPPL vì tuy loại văn bản này không chứa quy tắc xử sự trong bản thân nội dung văn bản nhưng nó tác động đến cơ chế điều chỉnh pháp luật, nó gọt giũa hình thù của hệ thống pháp luật[7]. Cho dù đã tìm thấy cơ sở lý luận để xem các văn bản dùng để tạm ngưng, kéo dài, đình chỉ thi hành hay bãi bỏ VBQPPL vẫn là VBQPPL thì chúng ta vẫn còn một vấn đề cần giải quyết đó là sự mâu thuẫn giữa việc xác định đặc điểm này trong định nghĩa với sự liệt kê các văn bản không chứa đựng chính đặc điểm đã xác định. Hơn nữa, nếu nhìn nhận ở góc độ khác, liên quan đến cơ chế bảo hiến bởi Tòa án Hiến pháp đang vận hành ở nhiều nước trên thế giới và cũng theo đề xuất của không ít nhà khoa học nên áp dụng mô hình tài phán này cho Việt Nam thì quan điểm trên có phần không phù hợp[8]. Để bảo vệ tính tối thượng của Hiến pháp, Tòa án Hiến pháp sẽ có quyền ra quyết định hủy bỏ VBQPPL nào đó trái với Hiến pháp. Trên cơ sở lập luận rằng, bản án khi bãi bỏ một VBQPPL cũng làm thay đổi hình thù của hệ thống pháp luật thì chúng ta lại phải xem bản án là VBQPPL. Điều này có vẻ như không hợp lý, và càng không hợp lý hơn khi Dự thảo xem nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội dùng để bãi bỏ các văn bản không phải là văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung cũng chính là VBPL.
 - Lệnh của Chủ tịch nước dùng để công bố luật, pháp lệnh
Khoản 3 Điều 15 Dự luật quy định, Chủ tịch nước ban hành VBPL để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Hiện nay, theo luật Ban hành VBQPPL năm 2008, lệnh của Chủ tịch nước dùng để công bố luật, pháp lệnh vẫn được đánh số và ký hiệu của VBQPPL nhưng trong văn bản này lại không ghi thời điểm có hiệu lực theo đúng quy định tại Điều 78: “thời điểm có hiệu lực của VBQPPL được quy định trong văn bản…”.Điều này cho thấy văn bản này không được ban hành theo đúng hình thức, thủ tục được quy định trong Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 và theo Điều 1 Luật này, văn bản này cũng không được xem là VBQPPL. Nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do lệnh công bố luật của Chủ tịch nước không chứa quy tắc xử sự chung. Các lệnh này ra đời như là một công đoạn trong thủ tục ban hành các luật hoặc pháp lệnh, nó không nằm trong khung vận hành chung của một VBQPPL, cụ thể chúng có công đoạn soạn thảo rất đơn giản, không thông qua giai đoạn đánh giá tác động, lấy ý kiến nhân dân, thẩm định, thẩm tra, sửa đổi, bổ sung, hợp nhất, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành[9].
Qua xem xét hệ thống VBPL của Dự luật, chúng ta thấy một số văn bản không đáp ứng các điều kiện đặt ra trong định nghĩa VBPL, đặc biệt là điều kiện tiên phát “chứa đựng quy tắc xử sự chung”. Để giải quyết mâu thuẫn trên, có quan điểm cho rằng, quy định VBQPPL là văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung là sai lầm và thay cho dấu hiệu trên là dấu hiệu làm thay đổi sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành[10]. Như đã phân tích, khái niệm VBQPPL là văn bản chứa đựng quy tắc xử sự chung sẽ trở nên hợp lý nếu chúng ta không gượng gạo đưa vào những văn bản không đáp ứng điều kiện trên. Các văn bản này nên được mạnh dạn loại ra ngoài hệ thống pháp luật như đã từng làm tinh gọn hệ thống VBQPPL vào năm 2008. Sau khi loại ra ngoài hệ thống, dù không được xem là VBQPPL nhưng các văn bản đó vẫn mang tính pháp lý, vẫn có thể trực tiếp hay gián tiếp tác động đến cơ chế điều chỉnh pháp luật như làm cơ sở để ban hành hay sửa đổi VBQPPL hiện hành, công bố một VBQPPL mới, làm tạm ngưng hay chấm dứt hiệu lực của các VBQPPL … Thực hiện điều này góp phần làm tinh gọn hệ thống VBQPPL, nâng cao tính hiệu quả của cơ chế kiểm tra giám sát VBQPPL và đặc biệt là đảm bảo tính thống nhất của chính các điều luật trong đạo luật có tầm quan trọng bậc nhất của hệ thống VBQPPL nước nhà./. 

 


[1] Xem  Nguyễn Cửu Việt, “Trở lại trở lại khái niệm VBQPPL”, Nghiên cứu Lập pháp số 4 (97) 2007, tr. 26-32 và Đoàn Thị Tố Uyên, “Khái niệm VBQPPL- nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Luật học, số 11/2009, tr. 56.
[2] Hầu hết các sách tham khảo, các giáo trình về lý luận nhà nước và pháp luật đề cập đến 3 hình thức pháp luật là tập quán pháp, tiền lệ pháp và VBQPPL, không phải là VBPL.
[3] Đặng Đình Luyến, Những vấn đề lớn của Dự án Luật Ban hành VBPL, tài liệu Hội thảo tham vấn ý kiến về sự tham gia của các tổ chức xã hội vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật cho Dự thảo Luật Ban hành VBPL.
[4] Nguyễn Cửu Việt, “Khái niệm VBQPPL (tiếp theo) và hệ thống VBQPPL”, Nghiên cứu Lập pháp, số 5 (99)/2007, tr. 28.
[5]Nguyễn Minh Đoan, “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật”, Nxb. Chính trị quốc gia, năm 2013, tr. 393.
[6] Dự luật dùng từ bãi bỏ văn bản (không phải bãi bỏ VBPL) cũng như việc TANDTC và VKSNDTC không được Dự luật trao quyền ban hành VBPL.
[7] Nguyễn Cửu Việt, “Trở lại khái niệm VBQPPL”, Nghiên cứu Lập pháp, số 4 (97) năm 2007, tr. 30.
[8] Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Bàn về sửa đổi và bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Lao động năm 2012, Võ Trí Hảo, “Lựa chọn mô hình tài phán hiến pháp- những vấn đề phổ biến và đặc thù của quốc gia”, tr. 536-544 và Nguyễn Ngọc Điện, “Mô hình tài phán hiến pháp nào cho Việt Nam”, tr. 545-551.
[9] Đào Tiềm, “Một số đề xuất mới của Chính phủ trong Dự thảo Luật Ban hành VBQPPL mới, Trang thông tin điện tử Ban Nội chính trung ương”, http://noichinh.vn/ho-so-tu-lieu/201409/mot-so-de-xuat-moi-cua-chinh-phu-trong-du-thao-luat-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat-moi-295561/ (truy cập ngày 20/01/2015).
[10] Nguyễn Cửu Việt, “Trở lại khái niệm VBQPPL”, Nghiên cứu Lập pháp, số 4 (97) năm 2007, trang 33.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10(290), tháng 5/2015)


Ý kiến bạn đọc