Những nội dung đổi mới cơ bản của Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)

01/05/2015

NGUYỄN HÒA BÌNH

Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

Ngay sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đưa Hiến pháp vào cuộc sống đã được đặt ra rất khẩn trương và nghiêm túc. Trong số đó, có Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS), đạo luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, quyết định hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người, của công dân. Việc xây dựng Dự án Bộ luật TTHS (sửa đổi) phải thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng về một nền tư pháp hoạt động hiệu lực, hiệu quả, mang đậm tính nhân dân; thể hiện đầy đủ các nguyên tắc tư pháp tiến bộ được hiến định trong Hiến pháp mới. Đồng thời, phải kế thừa những quy định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra qua thực tiễn; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những yêu cầu này đã được quán triệt nghiêm túc trong quá trình soạn thảo, tạo nên những đổi mới cơ bản của Dự thảo Bộ luật TTHS sửa đổi (Dự thảo).  
Untitled_237.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Nguyên tắc cơ bản của TTHS không phải ngẫu nhiên hình thành, mà là đòi hỏi khách quan của xã hội, là cái cần phải có của hoạt động TTHS, là kết tinh của văn minh pháp lý nhân loại. Việc xác định chính xác các nguyên tắc cơ bản của TTHS có ý nghĩa quan trọng, định hướng quá trình xây dựng và thực hiện Bộ luật TTHS, góp phần hình thành những chuẩn mực về cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án.
Bộ luật TTHS năm 2003 dành một chương quy định về “nguyên tắc cơ bản” với số lượng 30 nguyên tắc. Qua tổng kết thực tiễn và kết quả xin ý kiến Chính phủ, các bộ, ngành, các chuyên gia, nhà khoa học đều nhận định: quy định 30 nguyên tắc cơ bản như hiện hành chưa phù hợp cả về nội dung và hình thức thể hiện; nhiều quy định không phải là nguyên tắc cơ bản hoặc không mang tầm nguyên tắc, mà chỉ là trách nhiệm của các cơ quan; quy định về nguyên tắc còn tản mạn và trùng lắp, gây khó khăn cho quá trình nhận thức và áp dụng nguyên tắc. Trong hệ thống pháp luật nước ta, chưa có đạo luật nào có tới 30 nguyên tắc cơ bản, thậm chí, Bộ luật Dân sự điều chỉnh toàn bộ đời sống dân sự cũng chỉ có 10 nguyên tắc. Tham khảo Luật TTHS của các nước, thường họ chỉ ghi nhận từ 7 đến 10 nguyên tắc.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, Dự thảo đã khái quát và xây dựng hệ thống nguyên tắc cơ bản gồm 10 nguyên tắc trên cơ sở điều chỉnh 30 nguyên tắc hiện hành và bổ sung một số nguyên tắc mới được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Cụ thể gồm các nguyên tắc: bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong TTHS; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; trách nhiệm khởi tố và xác định sự thật của vụ án; suy đoán vô tội; bảo đảm quyền bào chữa; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật; nguyên tắc đối với hoạt động xét xử; tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS; kiểm tra, giám sát, kiểm soát hoạt động TTHS. Những đổi mới nêu trên có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện nội dung và kỹ thuật lập pháp, xác lập hệ thống nguyên tắc có tính khái quát cao, thực sự đóng vai trò là những tư tưởng chỉ đạo, có tính định hướng đối với toàn bộ hoạt động TTHS.
2. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng, bảo đảm các cơ quan thực hiện tốt trách nhiệm luật định
Đề cao trách nhiệm, xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác phát hiện và xử lý tội phạm là yêu cầu quan trọng của cải cách tư pháp. Yêu cầu này đã được quán triệt và kiên trì triển khai thực hiện qua các lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS, đặt cơ sở để nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thực tế.
Thực tiễn áp dụng Bộ luật thời gian qua cho thấy, các quy định hiện hành cơ bản đã phát huy tác dụng, góp phần giữ vững kỷ cương xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Bên cạnh đó, quá trình áp dụng các quy định hiện hành cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến quá trình đi tìm sự thật vụ án, như: quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tố tụng có nội dung chưa phù hợp nên khó khăn trong thực hiện; việc phân cấp thẩm quyền chưa được quy định chặt chẽ dẫn đến cơ quan tố tụng cấp trung ương vẫn thụ lý, giải quyết nhiều vụ án của cấp dưới; một số trình tự, thủ tục chưa cụ thể nên tính khả thi chưa cao…
Yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi Bộ luật TTHS là phải khắc phục cho được những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật hiện hành, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tố tụng để các cơ quan thực hiện tốt trách nhiệm luật định. Trên cơ sở đó, Dự thảo đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, cụ thể là:
Đối với Cơ quan điều tra: Quy định cụ thể những vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra cấp trung ương để một mặt tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn, mặt khác, phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp cơ sở; bổ sung một số biện pháp điều tra như: nhận biết giọng nói; định giá tài sản; quy định cụ thể trình tự, thủ tục khi tiến hành từng biện pháp điều tra; quy định đầy đủ các trường hợp phải tạm đình chỉ điều tra.
Đối với Viện kiểm sát: nhằm thực hiện chủ trương “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra”, Dự thảo bổ sung, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát phải: thực hành quyền công tố từ khi Cơ quan điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; khi thuộc trường hợp luật định, phải trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, tiến hành một số hoạt động điều tra; quy định cụ thể trách nhiệm chuyển vụ án khi phát hiện việc điều tra không đúng thẩm quyền; quy định bắt buộc kiểm sát viên phải có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, khám xét.
Đối với Tòa án: để bảo đảm Tòa án thực hiện tốt quyền tư pháp, Dự thảo quy định cụ thể thẩm quyền của Tòa án trong việc: xem xét, kết luận về tính hợp pháp các hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, người bào chữa; xem xét, kết luận tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do các chủ thể tố tụng thu thập, cung cấp; quy định các trường hợp và cách thức Tòa án thu thập, bổ sung chứng cứ; quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng.
3. Tăng quyền, tăng trách nhiệm cho các chức danh tư pháp
Tăng quyền, tăng trách nhiệm cho các chức danh tư pháp là chủ trương quan trọng của cải cách tư pháp được đề ra trong nhiều nghị quyết của Đảng[1]. Đây là vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc tổ chức lao động, phân công trách nhiệm trong hoạt động tư pháp. Việc phân định thẩm quyền hợp lý sẽ có tác dụng thúc đẩy tiến độ giải quyết vụ án, phát huy trách nhiệm cá nhân của mỗi chức danh tố tụng. Ngược lại, nếu việc phân định thẩm quyền không hợp lý sẽ không khắc phục được thực trạng tập trung thẩm quyền cho thủ trưởng các cơ quan tố tụng, không đề cao được trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của những người trực tiếp tiến hành tố tụng, thậm chí, còn khuyến khích sự tắc trách, tâm lý thiếu tự tin, dựa dẫm, ỷ lại của cấp dưới vào cấp trên.
Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 phản ánh nhiều hạn chế, vướng mắc xung quanh chế định này. Theo quy định, lãnh đạo Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải ký hầu hết các quyết định tố tụng, trong khi đó, Điều tra viên, Kiểm sát viên là những người được phân công trực tiếp nghiên cứu, giải quyết vụ án lại chỉ được giao những thẩm quyền hạn chế, chủ yếu là tiến hành các biện pháp tố tụng nhằm thực thi các quyết định của thủ trưởng. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và tiến độ giải quyết vụ án hình sự thời gian qua.
Khắc phục những hạn chế nêu trên, Dự thảo đã đổi mới cơ chế phân định thẩm quyền theo hướng đề cao trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, mạnh dạn giao thẩm quyền để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ. Bảo đảm mỗi chức danh đều phải có địa vị pháp lý của mình, quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm. Theo đó, đối với những thẩm quyền tố tụng quan trọng, quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng các cơ quan tố tụng thực hiện; những thẩm quyền nhằm phát hiện, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án giao cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán thực hiện. Những sửa đổi, bổ sung này sẽ tạo bước chuyển về chất trong hoạt động của các cơ quan tố tụng, thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án khẩn trương, chính xác, đề cao trách nhiệm đầy đủ của từng chức danh tư pháp, đồng thời, bảo đảm thận trọng, chặt chẽ trong kiểm soát hoạt động tố tụng, phù hợp với mặt bằng năng lực của các chức danh tư pháp hiện nay.
4. Đổi mới chế định chứng cứ, chứng minh và giải quyết những vướng mắc liên quan đến giám định tư pháp
Sự thành công hay thất bại của quá trình điều tra, truy tố, xét xử phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chứng cứ giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Các giai đoạn tố tụng được mở ra hay kết thúc đều hướng đến việc tìm kiếm và làm rõ chứng cứ. Xuất phát từ tầm quan trọng như vậy nên các nước đều đặt ra những yêu cầu rất chặt chẽ để chứng cứ thực sự trở thành phương tiện chứng minh hữu hiệu đối với vụ án.
Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua đã phản ánh sự lạc hậu của chế định chứng cứ so với biến đổi của tình hình. Việc không công nhận quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa đã làm cho quá trình tranh tụng trở nên không thực chất và kém thuyết phục; việc chỉ ghi nhận các nguồn chứng cứ truyền thống là tài liệu, đồ vật đã không còn phù hợp với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin; thiếu nhiều nguồn chứng cứ quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án…
Để đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự trong tình hình mới, Dự thảo đã sửa đổi theo hướng:
Một là, phá bỏ sự độc quyền của các cơ quan tố tụng trong việc thu thập chứng cứ; bổ sung người bào chữa và những người tham gia tố tụng có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ. Đồng thời, quy định cụ thể cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, cũng như trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc xem xét chứng cứ do người bào chữa cung cấp.
Hai là, bổ sung dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ quan trọng và đặc thù. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đã làm biến đổi thế giới và trở thành phương tiện đa năng, hữu ích của con người. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin cũng đang bị lợi dụng đáng kể vào các hoạt động phạm tội. Có thể nói, ngoài xã hội có các loại tội phạm gì thì trên mạng thông tin toàn cầu cũng có loại tội phạm đó. Thế giới tội phạm mạng cũng bao gồm đầy đủ từ trộm cắp, lừa đảo, khủng bố đến giết người, buôn bán ma túy… Vì vậy, việc bổ sung dữ liệu điện tử vào nguồn chứng cứ là cần thiết và khách quan. Dữ liệu điện tử không phải là sự vật hay sự kiện như quan niệm truyền thống. Đây là những ký tự được lưu giữ trong thiết bị điện tử hoặc trên mạng internet mà từ đó có thể cho ra chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh... phản ánh sự kiện phạm tội. Những dữ liệu điện tử này một mặt rất dễ bị tẩy xóa, sửa chữa, thay đổi, hủy bỏ do cố ý hoặc vô ý; mặt khác, trong nhiều trường hợp tự nó không thể có giá trị chứng minh nếu không có sự tác động của nhà chuyên môn với sự trợ giúp của các thiết bị điện tử và chương trình phần mềm được thừa nhận là khách quan và khoa học. Trên cơ sở đó, Dự thảo quy định cụ thể trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi, phân tích dữ liệu điện tử, cũng như việc sử dụng các thiết bị hoặc phần mềm được thế giới công nhận trong việc khôi phục dữ liệu nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này. Những đổi mới nêu trên sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao, góp phần hoàn thiện lý luận về chứng cứ nói chung và chứng cứ điện tử nói riêng.
Ba là, cùng với việc hoàn thiện chế định chứng cứ và chứng minh, Dự thảo đã bổ sung các quy định nhằm giải quyết căn bản những vướng mắc trong công tác giám định. Cụ thể là: (1) Phân nhóm một cách khoa học các vấn đề cần trưng cầu giám định, tạo tiền đề cho việc quy định thời hạn giám định đối với từng nhóm; (2) Trên cơ sở phân nhóm, đặt ra thời hạn giám định phù hợp nhằm khắc phục tình trạng giám định chậm trễ, thiếu thời hạn ràng buộc thời gian qua; (3) Quy định cơ chế giải quyết trong trường hợp có xung đột giữa các kết luận giám định; (4) Bổ sung các quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của người giám định…
5. Quy định nghiêm ngặt và kiểm soát chặt chẽ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân
Vì con người, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt trong quan điểm chỉ đạo của Đảng ta. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”[2]. Hiến pháp năm 2013 đã xác lập cơ sở Hiến định nhằm thực hiện sâu sắc quan điểm của Đảng và khẳng định rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14). Như vậy, chỉ có các đạo luật của Quốc hội mới được phép quy định biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Việc hạn chế cũng chỉ trong những trường hợp thật cần thiết bởi các lý do đã được giới hạn trong Hiến pháp. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, thái độ trân trọng và đề cao nhân dân, ngăn ngừa việc tùy tiện ban hành các quy định dưới luật để hạn chế quyền con người, quyền công dân. Dự thảo đã bám sát yêu cầu của Hiến pháp và quy định chặt chẽ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Cụ thể là:
Thứ nhất, tập hợp đầy đủ nhất có thể mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để điều chỉnh trong Bộ luật. Theo đó, luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, bổ sung một số biện pháp cưỡng chế khác như buộc phải có mặt theo giấy triệu tập, tạm hoãn xuất cảnh, phong tỏa tài khoản… Đồng thời, bảo đảm từng biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được điều chỉnh chặt chẽ bởi năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành.
Thứ hai, quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam theo hướng cụ thể hóa các căn cứ được coi là cản trở điều tra, truy tố, xét xử nhằm chống tùy nghi, lạm dụng. Đồng thời, rút ngắn thời hạn tạm giam, chỉ cho phép gia hạn một lần thay vì gia hạn hai lần như hiện nay đối với tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng; chỉ cho phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba lần như hiện nay đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Điều này sẽ buộc các cơ quan tố tụng phải cân nhắc kỹ thời điểm bắt giam, phải tổ chức lực lượng để khẩn trương kết thúc vụ án, không kéo dài tình trạng pháp lý căng thẳng của bị can, bị cáo.
Thứ ba, nhằm phát huy hiệu quả của các biện pháp ngăn chặn có tính chất thay thế cho biện pháp tạm giam, Dự thảo quy định cụ thể điều kiện đối với cá nhân đứng ra nhận bảo lĩnh, quy định chế tài phạt tiền áp dụng đối với người nhận bảo lĩnh trong trường hợp để bị can, bị cáo bỏ trốn. Đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm điều chỉnh theo hướng chỉ quy định đặt tiền, không quy định đặt tài sản nhằm nhanh chóng áp dụng biện pháp này trong thực tiễn.
Thứ tư, về kỹ thuật lập pháp, Dự thảo đã thu hút toàn bộ biện pháp cưỡng chế tố tụng để điều chỉnh chung trong một chương nhằm bảo đảm tính chặt chẽ và nhất quán trong việc quy định các biện pháp này.
6. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội
Suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản của nền tư pháp dân chủ, thể hiện tinh thần pháp chế, tính công minh và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hiệp quốc năm 1948 khẳng định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi một Tòa án công khai, nơi người đó đã có được tất cả những bảo đảm cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở luật pháp” (Điều 11). Tiếp thu thành tựu của văn minh pháp lý nhân loại, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện một cách sâu sắc nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31).
Nguyên tắc này khẳng định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết một người có tội. Chừng nào chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội vẫn là người vô tội. Đây là tình trạng pháp lý khách quan của họ. Các cơ quan tố tụng một mặt phải đối xử với họ như người không có tội; mặt khác, phải tạo mọi điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa, gỡ tội. Việc chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục luật định.
Trên tinh thần đó, nguyên tắc suy đoán vô tội đã được bổ sung là một nội dung mới của Bộ luật TTHS và được thể hiện: “Mọi hoài nghi về tội của người bị buộc tội nếu không thể làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải xử lý theo hướng có lợi cho họ”. Xác định đầy đủ trong Bộ luật những đối tượng thuộc phạm trù người bị buộc tội, gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của những người này. Đồng thời, Dự thảo cụ thể hóa các trình tự, thủ tục trong từng giai đoạn tố tụng làm cơ sở để các cơ quan tố tụng khẩn trương khám phá vụ án, mặt khác, thuận lợi cho nhân dân và các cơ quan dân cử giám sát hoạt động giải quyết vụ án; quy định Tòa án sẽ không mở phiên tòa nếu có căn cứ xác định việc điều tra, truy tố trước đó vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
7. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là yêu cầu quan trọng của mọi nền tư pháp dân chủ. Ở nước ta, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội đã được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và tiếp tục được khẳng định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 quy định người bị buộc tội được bảo đảm quyền bào chữa và thực hiện quyền này bằng hai hình thức: “Tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, người khác bào chữa” (khoản 4 Điều 31); đồng thời, dành một điều trong chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân để quy định về trách nhiệm của các cơ quan này trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (khoản 7 Điều 103). Như vậy, bảo đảm quyền bào chữa không chỉ được ghi nhận là một trong những quyền con người, quyền công dân quan trọng nhất của người bị buộc tội mà còn được đặt thành trách nhiệm hiến định đối với các cơ quan tố tụng. Những yêu cầu này của Hiến pháp phải được phản ánh sâu sắc trong quá trình soạn thảo Bộ luật TTHS sửa đổi.
Đáp ứng yêu cầu nêu trên, Dự thảo đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng. Ngoài người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền bào chữa như hiện hành, bổ sung người bị bắt cũng được bảo đảm quyền bào chữa. Quy định người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay. Bổ sung quyền của người bị buộc tội được đọc bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa đã được hiến định. Mở rộng diện người bào chữa gồm cả Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa cho những đối tượng thuộc diện chính sách; mở rộng trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa với tội có mức hình phạt cao nhất là tù chung thân. Rút ngắn thời hạn cấp giấy đăng ký bào chữa xuống còn 12 giờ đối với trường hợp bào chữa cho người bị tạm giữ, 24 giờ đối với trường hợp bào chữa cho bị can, bị cáo để người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục bào chữa trong từng giai đoạn tố tụng, tạo cơ sở pháp lý để cả cơ quan tố tụng và người bào chữa làm tròn phận sự bảo vệ người bị buộc tội theo đúng quy định của luật.
8. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Cải cách tư pháp đặt yêu cầu: “bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng phán quyết bản án”[3]. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 103). Tranh tụng luôn là nhu cầu khách quan của TTHS và được tập trung cao nhất ở giai đoạn xét xử. Tranh tụng không chỉ là hoạt động tranh luận tại phiên tòa mà bắt đầu từ rất sớm, kể từ khi có hoạt động buộc tội. Có buộc tội thì có nhu cầu kiểm tra, bổ sung chứng cứ, tranh luận, phản biện lý lẽ của nhau. Do đó, bảo đảm tranh tụng thực chất là tạo ra và bảo đảm những điều kiện để các chủ thể thực hiện tốt chức năng tố tụng của mình, bình đẳng trong hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh. Tranh tụng là điều kiện cần thiết để đạt tới chân lý khách quan của vụ án, là cơ sở để loại trừ những vi phạm, sai lầm tư pháp như bức cung, nhục hình, làm sai lệch hồ sơ vụ án, làm oan người vô tội.
Để bảo đảm tranh tụng trong xét xử, Dự thảo đã bổ sung nhiều quy định mới. Theo đó, ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay, bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa cũng có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ. Quy định người bào chữa có quyền đánh giá chứng cứ do cơ quan tố tụng thu thập. Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước tiên phải thuộc về cơ quan buộc tội (Viện kiểm sát); bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với bị hại, người làm chứng nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay. Điều chỉnh thẩm quyền của Tòa án để phù hợp với nguyên tắc tranh tụng. Tòa án phải đảm đương vai trò khách quan, là người phân xử, quyết định tính có căn cứ và tính thuyết phục của từng chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên trong việc đưa ra chứng cứ, chứng minh cho quan điểm của mình. Bị can, bị cáo có quyền yêu cầu Tòa án thu thập bổ sung chứng cứ nếu đã yêu cầu ở giai đoạn điều tra, truy tố mà không được chấp nhận. Khẳng định rõ nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
9. Hoàn thiện chế định thời hạn tố tụng nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án khẩn trương, đúng thời hạn luật định
Lần đầu tiên Hiến pháp nước ta hiến định quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định (khoản 2 Điều 31). Đây là yêu cầu rất quan trọng của tư pháp, nhất là đối với lĩnh vực tư pháp hình sự, lĩnh vực liên quan trực tiếp đến phẩm giá và những quyền thiêng liêng nhất của con người (quyền tự do thân thể, quyền sống v.v..). Bảo vệ những giá trị quan trọng này đòi hỏi phải quy định thật chặt chẽ thời hạn tố tụng. Đặt ra thời hạn tố tụng chính là đặt ra giới hạn đối với thẩm quyền của các cơ quan tư pháp, là căn cứ để kiểm soát việc thực thi công vụ tư pháp. Hoạt động tố tụng phải đượcchỉ được thực hiện trong thời hạn luật định. Kéo dài tình trạng pháp lý hình sự đối với con người không phải là biểu hiện của nền tư pháp văn minh.
Tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 đã chỉ ra nhiều hạn chế, thiếu sót xung quanh chế định thời hạn tố tụng: vẫn còn những hoạt động tố tụng chưa bị ràng buộc bởi thời hạn; tồn tại trong Bộ luật 36 điều quy định thời hạn có tính định tính (như: gửi ngay, thông báo ngay, trả tự do ngay…); một số thời hạn quy định chưa hợp lý hoặc chưa chặt chẽ, vừa gây khó khăn, vừa làm tăng sự tùy nghi của các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; quy định về thủ tục rút gọn quá chú trọng rút ngắn về thời hạn mà chưa chú trọng rút gọn về thủ tục, dẫn đến hiệu quả áp dụng thấp trong thực tiễn…
Khắc phục những bất cập nêu trên, quá trình sửa đổi Bộ luật TTHS đã rà soát, bổ sung các quy định nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng đều phải bị ràng buộc về thời hạn và chỉ được thực hiện trong thời hạn luật định. Theo đó, bổ sung thời hạn cho tất cả các biện pháp cưỡng chế tố tụng (bao gồm biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền), thời hạn khiếu nại lần hai và một số thời hạn khác. Cụ thể hóa các thời hạn có tính định tính trong Bộ luật hiện hành bằng các thời hạn cụ thể nhằm tránh sự tùy tiện, lạm dụng trong thực tiễn. Quy định mỗi cơ quan chỉ được trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung một lần thay vì hai lần như hiện nay. Tăng thời hạn cho một số hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm tính khả thi và tránh gây áp lực với các cơ quan tố tụng, như: tăng một cách hợp lý thời hạn xác minh tố giác, tin báo; thời hạn giao quyết định, tài liệu tố tụng đối với những vụ án có đông bị can. Đổi mới thủ tục rút gọn theo hướng quy định bắt buộc áp dụng thủ tục này khi đủ điều kiện luật định thay cho tùy nghi áp dụng như hiện nay; lược bớt một số thủ tục tố tụng cụ thể cho phù hợp với tính chất của thủ tục rút gọn và đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án. Quy định thời gian tối đa được phép lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên không quá hai giờ trong một lần và không quá hai lần trong một ngày. Những đổi mới này sẽ góp phần quan trọng thực hiện tốt nguyên tắc kịp thời, chính xác, tiết kiệm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp.
10. Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quá trình giải quyết vụ án hình sự
Kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan nhằm bảo đảm cho quyền lực được thực hiện đúng đắn và có hiệu quả, ngăn chặn biểu hiện tha hóa quyền lực, là điều kiện cần thiết để thiết lập kỷ cương, kỷ luật, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Thiếu kiểm tra, giám sát, kiểm soát sẽ xuất hiện sự lạm dụng quyền lực, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, người chủ đích thực của quyền lực nhà nước. Đảng ta đã nhận thức và khẳng định đầy đủ nội dung này trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện của Đảng[4]. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa sâu sắc chủ trương quan trọng này và quy định rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Điều 2). Từ nguyên tắc nền tảng nêu trên, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã được thực hiện xuyên suốt trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, kiểm tra, giám sát, kiểm soát hoạt động tư pháp càng trở nên cần thiết và đặc biệt quan trọng bởi lẽ đây là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người, của công dân, đến trật tự, kỷ cương xã hội.
Cụ thể hóa yêu cầu quan trọng này của Hiến pháp, Dự thảo Bộ luật TTHS sửa đổi theo hướng bảo đảm mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều cơ chế, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong mỗi hệ thống và cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống. Kiện toàn các cơ chế nhằm giám sát chặt chẽ hoạt động điều tra, tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra của Cơ quan điều tra cấp trên với Cơ quan điều tra cấp dưới. Bổ sung các quy định để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng hiến định kiểm sát hoạt động tư pháp. Sửa đổi, bổ sung các quy định để tăng cường hiệu lực, hiệu quả cơ chế giám đốc, kiểm tra của Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới nhằm phát hiện kịp thời những sai sót trong bản án, quyết định của Tòa án các cấp. Sửa các quy định để bảo đảm sự kiểm soát giữa các khâu trong tiến trình tố tụng, khâu sau có trách nhiệm giám sát kết quả của khâu trước, loại bỏ chứng cứ do khâu trước thu thập bằng những biện pháp trái luật. Quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục, bổ sung trách nhiệm và hình thức công khai các quyết định tố tụng nhằm tạo điều kiện để người dân dễ tiếp cận công lý và tăng khả năng giám sát của xã hội đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS là công việc hệ trọng, đòi hỏi phải vượt qua cả những định kiến cũng như những toan tính phân quyền, với trọng trách lớn lao và thái độ công tâm, cầu thị vì cuộc sống bình yên của nhân dân. Mười vấn đề nêu trên là những định hướng sửa đổi chính yếu, ngoài ra còn nhiều nội dung cụ thể khác cũng không kém phần quan trọng. Những nội dung sửa đổi này sẽ tạo cơ sở để góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc./.
 

* PGS,TS. Ủy viên Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
[1] Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
[2] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr 85.
[3] Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
[4] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr 85, 247.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10(290), tháng 5/2015)