Quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động kiểm toán nhà nước và kiến nghị sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước

01/05/2015

PGS.TS. HOÀNG VĂN TÚ

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp

1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động kiểm toán nhà nước và những vấn đề đặt ra
Nghiên cứu về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động kiểm toán, cần xét đến mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức này đối với cơ quan kiểm toán. Trên cơ sở đó đánh giá, xem xét trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động kiểm toán nhà nước (KTNN).
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mục đích kiểm toán của KTNN là phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước[1]. Đối tượng kiểm toán của KTNN là các hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước (quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công - Khoản 1 Điều 118 Hiến pháp năm 2013).
Theo đó, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước được xác định là:
Thứ nhất, đối với tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính, các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm:
1.  Chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của các số liệu kế toán và các thông tin của báo cáo tài chính.
2.  Căn cứ vào các quy định của pháp luật, xây dựng và duy trì hoạt động hệ thống kiểm soát nội bộ thích hợp và có hiệu quả.
3.  Tổ chức kiểm toán nội bộ theo quy định của pháp luật để bảo vệ an toàn tài sản; đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính; việc chấp hành pháp luật, chế độ, chính sách của Nhà nước và các nội quy, quy chế của đơn vị[2].
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành cũng quy định rõ về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động KTNN. Cụ thể là:
 1. Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kiểm toán có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin, tài liệu theo yêu cầu của KTNN, Kiểm toán viên nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, khách quan của thông tin, tài liệu đã cung cấp.
      2. Khi nhận được báo cáo kiểm toán, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết đầy đủ, kịp thời kết luận và kiến nghị của KTNN, đồng thời gửi báo cáo kết quả giải quyết cho KTNN[3].
Đặc biệt, đối với các đơn vị được kiểm toán, Luật KTNN nghiêm cấm các hành vi sau:
- Từ chối cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho cuộc kiểm toán theo yêu cầu của KTNN và Kiểm toán viên nhà nước;
- Cản trở công việc của KTNN và Kiểm toán viên nhà nước;
- Báo cáo sai lệch, không trung thực, không đầy đủ và thiếu khách quan thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán của KTNN;
- Mua chuộc, hối lộ Kiểm toán viên nhà nước;
- Che giấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách;
- Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật.
- Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán của KTNN.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã có những quy định khá cụ thể, toàn diện về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động KTNN. Tuy nhiên, trong Luật KTNN hiện hành chưa xác định cụ thể các cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động kiểm toán là các cơ quan, tổ chức nào? Mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức này đối với hoạt động kiểm toán và cơ quan KTNN ra sao? Đây là những vấn đề bất cập mà trong Dự thảo Luật KTNN sửa đổi cần phải giải quyết.
 Thêm vào đó, Điều 5, Điều 6 của Luật KTNN năm 2005 quy định: Đối tượng kiểm toán của KTNN là các hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Theo đó, các cơ quan, tổ chức được xác định liên quan ở đây chỉ là: các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước. Hơn nữa, các cơ quan này cũng chỉ chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính trung thực của báo cáo tài chính. Điều này gây khó khăn cho cơ quan kiểm toán, kiểm toán viên trong quá trình xác định các cơ quan cần kiểm toán, nội dung kiểm toán.
2. Kiến nghị sửa đổi Luật Kiểm toán nhà nước
Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung và được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013). Bên cạnh nhiều nội dung quan trọng khác, tại chương X đã được bổ sung một nội dung hoàn toàn mới quy định về các thiết chế hiến định độc lập, trong đó có thiết chế KTNN.
Việc quy định về KTNN trong Hiến pháp là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của ngành kiểm toán, là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước và nhân dân về vị trí, vai trò và những nỗ lực đóng góp của KTNN qua gần 20 năm hoạt động. Sự kiện quan trọng này đã nâng tầm KTNN từ cơ quan do “Luật định” thành cơ quan “Hiến định”; đồng thời, cũng đặt ra yêu cầu phải nâng cao vai trò, trách nhiệm của KTNN đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước tương xứng với vị thế là một cơ quan hiến định độc lập. Trong thời gian tới, để thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến KTNN, công việc cần phải làm ngay là:
- Sửa đổi, bổ sung Luật KTNN cho phù hợp quy định của Hiến pháp và thực tiễn hoạt động KTNN;
Việc triển khai thi hành Hiến pháp đặt ra yêu cầu sửa đổi toàn diện Luật KTNN; trong đó nội dung liên quan đến trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động KTNN cần được nghiên cứu sửa đổi theo hướng sau:
a) Về đối tượng và phạm vi kiểm toán:
Quy định về phạm vi và đối tượng kiểm toán của KTNN trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa đầy đủ, chưa bao quát hết các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công. Căn cứ quy định của Hiến pháp, định hướng của INTOSAI[4], và từ thực tiễn hoạt động kiểm toán ở nước ta trong thời gian qua, cần bổ sung quy định theo hướng mở rộng phạm vi đối tượng kiểm toán của KTNN, bảo đảm bao quát hết các nguồn lực tài chính nhà nước và tài sản công, bao gồm: ngân sách nhà nước (NSNN), tiền và tài sản nhà nước, đất đai, tài nguyên khoáng sản và những đối tượng khác thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
b) Về mối quan hệ, trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức khác với KTNN:
 Mối quan hệ giữa KTNN với Quốc hội và trách nhiệm của Quốc hội đối với KTNN: Dự thảo Luật KTNN sửa đổi cần làm rõ mối quan hệ giữa Quốc hội và KTNN ở các khía cạnh:
Một là,trong việc thành lập KTNN:Theo Hiến pháp năm 2013 và pháp luật hiện hành thì KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Hai là, trong việc giám sát KTNN: Hiến pháp ở một số nước trên thế giới quy định chức năng giám sát của Quốc hội đối với KTNN. Ở Việt Nam, nội dung này lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 tại các quy định về: Quyền hạn của Quốc hội (Quốc hội xét báo cáo công tác của KTNN; Quốc hội quy định về tổ chức và hoạt động của KTNN; Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Tổng KTNN; Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu - Tổng KTNN); quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội - UBTVQH (UBTVQH giám sát đối với hoạt động của KTNN)... Các quy định này được đưa ra nhằm tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể tham gia vào các khâu điều hành, quản lý của Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Trong việc giám sát KTNN, Quốc hội sẽ:
- Xem xét báo cáo công tác của KTNN
- Giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của KTNN
- Giám sát các hoạt động của KTNN
- Xem xét, đánh giá trình độ, năng lực, trách nhiệm cá nhân do Quốc hội bầu.
- Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm giám sát việc sử dụng kinh phí của KTNN.
Theo đó, Dự thảo Luật KTNN cần quy định về trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc:
- Sử dụng kết quả kiểm toán của KTNN phục cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, trong đó đặc biệt là nhiệm vụ xem xét, quyết định dự toán NSNN, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án và công trình trọng điểm quốc gia được đầu tư từ nguồn NSNN; xem xét, phê chuẩn quyết toán NSNN và sử dụng trong hoạt động giám sát việc thực hiện NSNN, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia ...
- Cung cấp thêm thông tin cho cơ quan kiểm toán trong quá trình tiến hành kiểm toán ...
Trong mối quan hệ với Chính phủ và trách nhiệm của Chính phủ:Dự thảoLuật KTNN cần làm rõ trách nhiệm của Chính phủ trong việc:
- Chỉ đạo, đôn đốc các cơ quan, tổ chức liên quan thực hiện và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN;
- Chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu để phục vụ cho việc kiểm toán của KTNN.
Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân:Đây là nội dung cần được quy định tại một điều riêng, trong đó nêu rõ Hội đồng nhân dân có trách nhiệm phối hợp với KTNN trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của KTNN và trong hoạt động giám sát việc quản lý, điều hành tài chính ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm của cơ quan thanh tra, điều tra, cơ quan tư pháp và các cơ quan hữu quan:
- Đối với cơ quan thanh tra, điều tra, cơ quan tư pháp:Các cơ quan này có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo thẩm quyền các kiến nghị của KTNN. Kết quả giải quyết kiến nghị phải được thông báo cho KTNN, trong trường hợp không xử lý được thì phải có lý do cụ thể;
- Đối với các cơ quan hữu quan khác: Trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan này có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện để KTNN thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật thông qua hoạt động kiểm toán ...
c) Vềnhiệm vụ, quyền hạn của KTNN:
- Thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN: Tồn tại chủ yếu hiện nay của hệ thống pháp luật về KTNN là thiếu các quy định về chế tài đối với những hành vi vi phạm pháp luật KTNN. Điều này đã làm giảm hiệu lực của hoạt động KTNN cũng như tính nghiêm minh của pháp luật. Để khắc phục tình trạng trên, cần bổ sung thẩm quyền của KTNN trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KTNN của tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
Đề cao trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán, các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện đầy đủ, kịp thời các kiến nghị kiểm toán của KTNN, nhằm bảo đảm tính hiệu lực của hoạt động KTNN.
Để việc sửa đổi Luật KTNN đáp ứng yêu cầu tiến độ theo Nghị quyết số 64/2013/NQ-QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội và Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành kèm theo Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH ngày 02/01/2014 của UBTVQH, thiết nghĩ cần khẩn trương phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan hoàn thiện dự án Luật KTNN trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2015). Cùng với việc sửa đổi Luật KTNN, cần nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung  Luật NSNN và các luật có liên quan cho phù hợp với quy định của Hiến pháp về KTNN, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ giữa Luật KTNN với các luật có liên quan trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.
Để bảo đảm hiệu lực thi hành của Luật KTNN, cần tập trung rà soát để sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa hướng dẫn thi hành Luật KTNN. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán theo Kế hoạch Chiến lược phát triển KTNN giai đoạn 2013 - 2017. Đến năm 2015, KTNN có đầy đủ hệ thống chuẩn mực, các quy trình về kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động; từng bước cụ thể hóa quy trình kiểm toán theo chuyên ngành hẹp phù hợp với các loại hình kiểm toán, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của hoạt động KTNN. Để bảo đảm hiệu lực của hoạt động KTNN và tính nghiêm minh của pháp luật, việc sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất cần thiết, tập trung vào ba nhóm hành vi vi phạm hành chính chủ yếu sau đây:
(i) hành vi của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm các điều cấm, vi phạm các nghĩa vụ pháp lý theo quy định của Luật KTNN.
(ii) hành vi của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm các quy định về thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN.
(iii), hành vi của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm các quy định về công khai kết quả kiểm toán của KTNN[5]./.
 

*PGS, TS. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp
 
[1] Xem Điều 3 Luật KTNN năm 2005
[2] Điều 6 Luật KTNN năm 2005
 
[3] Điều 10 Luật KTNN năm 2005
 
[4] Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao
[5] Xem thêm: TS. Lê Hữu Vạn, Kiểm toán Nhà nước, một thiết chế đảm bảo thực hiện tính dân chủ trong Hiến pháp, Kỷ yếu Hội thảo “Tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm 2013” ngày 6/5/2014. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9(289), tháng 5/2015)