Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý

01/02/2015

GS,TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

Đại học Quốc gia Hà Nội

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
  2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
  3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Chúng tôi muốn tập trung phân tích sự cần thiết của việc tòa án phải bảo vệ công lý. Tòa án bảo vệ quyền con người và bảo vệ công lý là hai thuộc tính có sự liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời. Nếu tòa án không trở thành nơi thực hiện quyền tư pháp bảo vệ công lý, thì những quy định về nhân quyền của hiến pháp có nguy cơ trở thành những tuyên bố chung chung hình thức, không có hiệu lực thực thi. Ngược lại, nếu không quy định một cách rõ ràng quyền con người trong hiến pháp, thì tòa án cũng không có phương hướng rõ rệt cho việc bảo vệ. Vì vậy sẽ là không đầy đủ nếu chỉ phân tích thuộc tính tòa án bảo vệ quyền con người cùng những giá trị của nó mà không  phân tích tòa án có nghĩa vụ bảo vệ công lý.
Người ta thường nói: tư pháp là thành trì bảo vệ tự do, tức là bảo vệ con người với những quyền của họ, nên chính xác hơn, phải nói: tư pháp - tòa án chính là thành trì của bảo vệ công lý. Con người sống thành xã hội, nên khi xảy ra những mâu thuẫn, cần phải có sự phân giải đúng sai, để gìn giữ sự bình an của xã hội. Quyền của một người nào đó phải bị tước bỏ, nếu người đó vi phạm quyền của người khác. Đó là lẽ công bằng, công bằng tức là công lý. Xét xử vì công lý khác với xét xử không vì công lý, mà vì một thứ gì đó, như để bảo vệ nhà vua. Xét xử không vì công lý thì tòa án trở thành công cụ, thiết chế bảo vệ quyền lợi của nhóm lợi ích thân quen của vua chúa, của quan chức nhà nước. Và thuật ngữ “chủ nghĩa thân hữu” đã được hình thành để chỉ những hành vi của nhóm lợi ích nói trên.    
Một khi quyền con người đã được ghi nhận, thì quyền đó phải được bảo vệ. Thiết chế bảo vệ quyền con người là nhà nước, với một bộ phân chuyên biệt được gọi là tòa án đảm nhiệm việc phân xử các vụ việc.   
Sự phán xử tranh chấp một cách hoà bình của thiết chế công, mà ngày nay được gọi là toà án là giải pháp thay thế, trong đó các sự kiện được phân tích kỹ lưỡng và việc tự biện hộ cho mình, cũng như các lý lẽ khác có thể bào chữa hay giải thích, được xem xét và cân nhắc. Đó là một biện pháp công bằng được thành lập để giải quyết một cách hoà bình các tranh chấp. Với nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp này, toà án có tác dụng thiết lập nên trật tự lâu dài cho một xã hội.
Thể chế toà án là một thể chế rất đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Không những nó được hưởng quy chế phân quyền như các cơ quan lập pháp và hành pháp, mà còn phải độc lập hoàn toàn trước hai cơ quan này. Mặc dù nhiều nhà nước dân chủ tư sản được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng trên thực tế, hành pháp và lập pháp vẫn có sự phối kết hợp với nhau ở một mức độ nhất định, chỉ có tư pháp - do chức năng xét xử, bao giờ cũng được độc lập. Sức mạnh của nhà nước pháp quyền tuỳ thuộc nhiều vào sự độc lập của hệ thống tư pháp.
Thể chế toà án đã cung cấp cho xã hội một phương pháp xác định sự thật và sự công bằng trong các hành động của tư nhân và nhà nước bằng ba lĩnh vực cơ bản:
Thứ nhất, trách nhiệm chính của hệ thống thể chế này là đảm bảo sự bình ổn cho xã hội, góp phần tránh các cuộc trả thù một cách dã man trong quan hệ giữa con người với con người[1].
Thứ hai, sự phát triển kinh tế làm cho xã hội trở nên phồn thịnh cũng cần có những thể chế để giải quyết những tranh chấp giữa các doanh nghiệp, các công dân và các cơ quan của chính phủ, để làm sáng tỏ những điều còn mơ hồ của luật pháp và những quy định để buộc phải phục tùng. Các xã hội khác nhau đã nghĩ ra một loạt những cơ chế chính thức và không chính thức. Nhưng chẳng có cơ chế nào quan trọng hơn hệ thống tư pháp - tòa án.
Thứ ba, chỉ riêng tòa án mới có quyền chính thức phán quyết sự hợp pháp trong các  hoạt động của hành pháp và lập pháp. Việc quyết định cho tư pháp có quyền xét xử lại các hành vi, quyết định của các cơ quan nhà nước là một bước tiến vượt bậc của dân chủ và văn minh nhân loại, làm cho nhà nước bước sang một giai đoạn phát triển hoàn toàn khác với trước đây - khi toà án chỉ được quyền xét xử các hành vi của công dân. Hoạt động xét xử từ hình sự và dân sự đã mở sang các tranh chấp khác: lập pháp và hành pháp. Cũng vì thế mà tư pháp, xét xử phải độc lập.  
Muốn cho tư pháp độc lập thì trước hết, nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Tư pháp bao gồm tổ chức hoạt động của tòa án phải độc lập với lập pháp và hành pháp. Đồng thời với biểu hiện này là việc mặc dù tòa án phải được hình thành một hệ thống riêng, nhưng trong hệ thống của tòa án, giữa các cơ quan tòa án, cũng như trong một cơ quan toà án, giữa các thẩm phán không có sự trực thuộc trên dưới như trong hệ thống các cơ quan hành chính. Muốn cho tư pháp độc lập, thì thẩm phán phải độc lập.
 Từ khi Nhà nước Việt Nam đân chủ cộng hòa ra đời, chúng ta đã xây dựng nền tư pháp. Tuy nhiên, do các điều kiện lịch sử, nền tư pháp Việt Nam mới chỉ dừng lại ở chặng đường đầu tiên của sự phát triển. So với nền tư pháp của các nước phát triển, chúng ta còn cần phải làm rất nhiều việc.  
Ban đầu, hệ thống tư pháp Việt Nam được thành lập với mục đích là bảo vệ chế độ, chưa đặt ra mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Nhiệm vụ bảo vệ chế độ được quy định cho tòa án rất rõ ràng trong quy định của các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992. Chính cách quy định ấy làm cho cách thức tổ chức và hoạt động của tòa án Việt Nam rất khác với tòa án ở các nước trên thế giới. Mặc dù đặt ra mục tiêu bảo vệ chế độ, tòa án vẫn được quy định là độc lập, nhưng khái niệm độc lập tư pháp không được làm rõ, và không có chủ trương chính sách sát thực cho việc thực hiện nguyên tắc này. Hoặc có đi chăng nữa thì cũng không triệt để. Sở dĩ có hiện tượng như vậy, là vì việc thực thi nguyên tắc tập quyền XHCN rất khó cho việc thực thi nguyên tắc độc lập của tòa án. Cơ quan tư pháp của Việt Nam được hình thành và phát triển theo tinh thần của lý thuyết được áp dụng ở Liên Xô (cũ) và Trung Quốc. Ở các quốc gia áp dụng mô hình này, cho đến bây giờ cũng chưa có nền tư pháp độc lập một cách đầy đủ. Hệ thống tư pháp của họ - cũng như của Việt Nam - bao gồm không những chỉ có các cơ quan tòa án, mà còn có cả các cơ quan nhà nước khác như Viện Kiểm sát, các cơ quan điều tra, và các cơ quan luật sư, công chứng... được gọi là các cơ quan bổ trợ tư pháp.
Những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, mặc dù việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước đã theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công phân nhiệm giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, cùng với công cuộc cải cách tư pháp được tiến hành theo các nghị quyết của Đảng, nhưng sự tiến bộ trong hoạt động tư pháp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Hoạt động tư pháp vẫn còn mang đặc điểm của thời kỳ chiến tranh, bao cấp; chú trọng bảo vệ chế độ, chưa nghiêng hẳn về bảo vệ công lý, biểu hiện qua các đặc điểm:
i. Tòa án ở nước ta vẫn chỉ gồm các tòa án thường: hình sự, dân sự, tòa hành chính, mà chưa có tòa án hiến pháp;
ii . Tư pháp - tòa án được tổ chức theo các đơn vị hành chính địa phương;
Tòa án không phải là cấp xét xử cuối cùng, vẫn chịu sự giám sát của các cơ quan nhà nước khác;
iii. Tố tụng hình sự, dân sự chưa theo nguyên tắc tranh tụng; và vẫn có thỉnh thị án;
iv. Hình sự và tố tụng hình sự có mục đích chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, nhiều vụ việc bắt người trước để phục vụ cho điều tra…
v. Tố tụng dân sự chưa thực sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, nhiều trường hợp có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước, Viện kiểm sát.
vi. Một số điều của Bộ luật Hình sự không còn phù hợp với các quyền con người được ghi nhận trong Công ước của Liên hợp quốc về Quyền dân sự chính trị mà Việt Nam đã tham gia và với các quyền hiến định có liên quan;  
vii. Nhiều trường hợp án tại hồ sơ, xét hỏi mà không tranh tụng;  
viii. Vẫn họp liên ngành nội chính khi xử án;
ix. Đình chỉ xét xử tiến hành điều tra bổ sung;
x. Nặng về nội dung , xem nhẹ tố tụng chuẩn;
xi. Tòa án chỉ là một ngành của quản lý nhà nước…
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sự đổi mới vượt bậc trong các quy định về tổ chức và hoạt động tư pháp. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tòa án được ghi nhận là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và bảo vệ quyền công dân, các quy định này được đặt trước các quy định về bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Đây là những quy định có tính tương đồng với Hiến pháp nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới.
Tuy nhiên, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, quyền tư pháp thực hiện chức năng xét xử của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những phán quyết có liên quan đến các quyết định cá biệt của các cơ quan hành chính nhà nước, mà chưa có quyền phán quyết các quyết định thuộc chủ trương chính sách của các cơ quan nhà nước.  
Theo định nghĩa của Black’s Law Dictionary, quyền tư pháp (judicial power) là“thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”. Tư pháp là quyền xét xử các tranh chấp pháp lý dựa trên các quy định của pháp luật. Các tranh chấp này có thể chỉ là giữa người dân hoặc tổ chức do người dân lập ra (như doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức xã hội v.v..) với nhau, nhưng đó cũng có thể là tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc tranh chấp giữa cơ quan nhà nước với người dân, tổ chức.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, thì chúng ta phải có những thay đổi căn bản. Ví dụ như, đã từng có tranh luận về việc khi tuyên án, tòa án nên nhân danh ai hoặc nhân danh cái gì để ra phán quyết. Có ý kiến cho rằng, tòa án tuyên bố như hiện nay “nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” là chưa hợp lý, mà lẽ ra phải tuyên bố là “nhân danh công lý”. Theo chúng tôi, tòa án là một trong những thiết chế mà thông qua đó, pháp luật được hóa thân và hiện hữu một cách đầy đủ nhất của công lý. Do trong thực tế, khái niệm “pháp luật” và “công lý” không nhất thiết phải đồng nhất, nên sẽ là hợp lý hơn nếu quan niệm rằng, phán quyết của tòa án là thứ phán quyết nhân danh công lý. Về cơ bản, công lý đó phải lấy pháp luật làm cơ sở tối thượng để hình thành nên các phán quyết của mình.
Nếu để cho tòa án phán quyết theo công lý, thì nguyên tắc hoạt động, tổ chức của tòa án phải khác căn bản với nguyên tắc tổ chức và hoạt động vì chế độ, vì nhà nước. Trong thực tế trước đây và hiện nay, chúng ta đã và đang tiến hành nhiều cuộc cải cách tư pháp, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn chưa được giải quyết. Việc một số nơi cảnh sát điều tra vẫn tiếp tục lạm dụng quyền lực bắt, giữ người nghi là tội phạm, việc quá phụ thuộc vào lời nhận tội của nghi phạm, những khó khăn của luật sư trong việc tiếp cận thân chủ đang bị tạm giam, tạm giữ, cùng những khó khăn mà luật sự gặp phải trong việc tiếp cận hồ sơ truy tố và khó khăn trong việc thu thập những chứng cứ gỡ tội... là những ví dụ thể hiện tư pháp vẫn nằm trong vòng khép kín của từng cơ quan nhà nước, thậm chí còn nằm trong sự phối kết hợp giữa công an điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong việc xét xử các vụ án.  
Mục đích vì công lý của tòa án đã được xác định rõ trong quy định của Hiến pháp. Đây là một trong những thành công lớn của Hiến pháp năm 2013. Những khẳng định đó cần phải được cụ thể hóa bằng những chủ trương chính sách cụ thể, hữu hiệu kèm theo và phải được thể chế hóa thành các quy định của các đạo luật dưới Hiến pháp. Trước hết là các Luật Tổ chức Tòa án, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự…
Bên cạnh việc quy định tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 còn quy định một số nguyên tắc làm nền tảng cho việc bảo vệ công lý của tòa án. Ví dụ như nguyên tắc tranh tụng và quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự, nguyên tắc suy đoán vô tội kèm theo nó là quyền im lặng của bị can, bị cáo, xét xử nhanh chóng, công bằng và công khai…
Nếu chuyển sang thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử thì các điều kiện kèm theo để phục vụ cho công tác này là rất khác so với hiện nay. Phiên xét xử phải được hình thành như “một thế trận” cân bằng để các bên có quyền đưa ra các chứng cứ của mình, chứ không chỉ dừng lại ở những chứng cứ đã thu thập được của bên buộc tội. Bên buộc tội có những quyền hạn gì thì bên gỡ tội cũng có những quyền tương tự, một cách công khai, bình đẳng và càng không thể chấp nhận việc đưa ra chứng cứ một cách bất ngờ cho đối phương. Cũng tương tự như vậy trong xét xử dân sự: quyền hạn giữa hai bên nguyên và bên bị là bằng nhau. Trong mọi trường hợp, thẩm phán chỉ như một trọng tài của trận đấu tranh tụng giữa các bên, sẽ phán quyết nghiêng về bên nào có chứng cứ và có lập luận đúng hơn, khách quan hơn. Quyết định án của thẩm phán phải kèm theo sự lập luận chuẩn xác theo pháp luật và theo lương tâm của người thẩm phán. Tất cả những nguyên tắc này rất khác với những nguyên tắc của nền tư pháp với mục tiêu trước hết phải bảo vệ chế độ, bảo vệ pháp chế XHCN./.  

 


* GS,TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
[1] Xem, Ngân hàng Thế giới. Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường. Nxb. Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2002, tr. 153. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3+4(283+284), tháng 2/2015)