Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền con người ở việt nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển

01/10/2013

TS. ĐẶNG DŨNG CHÍ

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

TS. HOÀNG VĂN NGHĨA

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

1. Bảo đảm quyền con người luôn là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định, bảo đảm quyền con người (nhân quyền) là mục tiêu của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), là bản chất của xã hội ta. Vì thế, suốt 25 năm đổi mới, nhất là những năm gần đây, công tác nhân quyền được đặc biệt quan tâm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhận thức về nhân quyền trong xã hội, đặc biệt là trong cán bộ công chức, ngày càng được nâng cao. Các cấp, các ngành đã ngày càng quan tâm hơn đến công tác này. Bên cạnh Ban chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ, với hoạt động ngày càng đi vào nền nếp và chủ động, nhiều địa phương cũng đã thành lập được Ban chỉ đạo nhân quyền cấp tỉnh/thành phố, với sự tham gia của nhiều cơ quan, ban ngành. Sự phối hợp hoạt động của các cấp, các ngành, các địa phương cũng ngày càng đồng bộ và chặt chẽ hơn... Đạt được những thành tựu nói trên có sự đóng góp của nhiều cơ quan, đơn vị.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, theo quan điểm của Đảng, Việt Nam có thể và cần phải giành lại thế chủ động trên lĩnh vực nhân quyền. Ngày nay xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ; không chỉ lĩnh vực kinh tế, mà các lĩnh vực khác, kể cả lĩnh vực nhân quyền cũng diễn ra xu hướng này. Dù muốn hay không, mọi quốc gia đều bị cuốn vào và không khỏi bị tác động bởi tiến trình này. Các quá trình này còn bị hướng lái và thúc đẩy mạnh mẽ bởi Mỹ và Phương Tây; cả trên phạm vi toàn cầu cũng như ở mỗi khu vực và tiểu khu vực. Chúng ta cần chủ động trong mọi hoạt động, kể cả thành lập cơ quan nhân quyền quốc gia nhằm tránh bị áp đặt, bị lôi cuốn thụ động vào quá trình phức tạp, nhạy cảm, khó xử lý, nếu xử lý sai sẽ có nhiều hậu quả khôn lường.
Điều đáng lưu ý là việc thiết lập cơ quan nhân quyền quốc gia phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn quốc tế về cơ chế nhân quyền quốc gia, tương thích với xu hướng quốc tế và khu vực. Thông qua các hoạt động đối nội và đối ngoại, cơ quan này có thể góp phần tích cực vào các hoạt động tuyên truyền về thành tựu nhân quyền Việt Nam; cũng như trong hợp tác và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền.
Hiện nay, hơn 120 nước trên thế giới đã có cơ quan nhân quyền quốc gia. Trong khu vực Đông Nam Á, ngoài 5 nước đã có ủy ban nhân quyền quốc gia, một số quốc gia cũng đang chuẩn bị theo xu hướng này. Bên cạnh đó, các quốc gia thuộc ASEAN cũng đang tiếp tục hoàn thiện các cơ chế hiện có, đặc biệt là sự tham dự của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Các tổ chức khu vực mà Việt Nam là thành viên, như APEC, ASEM... đều đưa nhân quyền thành mối quan tâm chính, một hoạt động chủ yếu, thường xuyên. Bối cảnh trên đòi hỏi chúng ta cần thiết lập một cơ quan nhân quyền đủ sức đáp ứng các yêu cầu đối ngoại.
Căn cứ vào bối cảnh và thực tiễn chính trị Việt Nam, việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia theo đúng, đầy đủ các quy định của Nguyên tắc Paris là chưa phù hợp. Tuy nhiên, việc xây dựng một thiết chế độc lập có chức năng giám sát việc thực hiện quyền con người ở nước ta là cần thiết. Thiết chế ấy nên trực thuộc Quốc hội.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, để thực hiện tốt hơn nữa việc bảo vệ nhân quyền, cần có một cơ quan đặc trách về vấn đề này. Một cơ quan như vậy cần được tổ chức dựa trên các quy định và thông lệ quốc tế, song phải đảm bảo giữ vững được định hướng XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng (nghĩa là cơ quan này cần phải đảm bảo tin cậy về chính trị và chuyên môn), tuân thủ các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhân quyền. Để thành lập một cơ quan như vậy phải có lộ trình chuẩn bị từng bước về cơ sở pháp lý, nhân sự và điều kiện hoạt động.
Để đáp ứng được yêu cầu nói trên, trước mắtkhông nên tập trung tất cả các chức năng theo quy định của Nguyên tắc Paris vào một cơ quan, mà nên phân các chức năng đó cho một số cơ quan đủ năng lực chuyên mônuy tín chính trị đảm nhiệm. Khi các cơ quan hoạt động ổn định, có thể sáp nhập vào một cơ quan quốc gia.
Những điểm trình bày ở trên là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để tiếp tục hoàn thiện các cơ quan nhân quyền hiện có và đề xuất việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia ở Việt Nam
2. Một số mô hình thiết chế độc lập khả thi về thực hiện quyền con người
Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, việc tiếp tục kiện toàn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; bao gồm Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư pháp là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để bảo đảm quyền con người. Đây là một nhiệm vụ luôn được quan tâm và đặc biệt được coi trọng trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Thông qua việc đổi mới các hoạt động của Quốc hội, các chương trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, việc bảo đảm quyền con người ngày càng được mở rộng và nâng cao. Điều này cho thấy, việc tìm kiếm, bổ sung các cơ chế mới chỉ có tác dụng khi bản thân các nhánh quyền lực cũng nhận thức rõ và không ngừng đổi mới chính mình. Ngược lại, dù có bổ sung thêm bao nhiêu cơ chế đi chăng nữa, nhưng bản thân nhà nước không chuyển động thì các cơ chế mới cũng mất tác dụng và trở nên vô nghĩa.
Với ý nghĩa ấy, việc xây dựng, kiện toàn các cơ quan nhân quyền phải gắn liền với đổi mới bản thân các cơ quan nhà nước, gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
2.1. Kiện toàn các cơ quan nghiên cứu, giáo dục nhân quyền
Nhận thức về nhân quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi nhân quyền. Đến nay đã có thêm một số cơ sở giáo dục đào tạo về quyền con người, trong đó có cả đào tạo ở bậc đại học, theo các chương trình và nội dung khác nhau. Nếu không được quan tâm kịp thời, các quan điểm nhân quyền tư sản, thông qua các đối tượng dự học, không khỏi ảnh hưởng nhanh tới các tầng lớp trong xã hội. Do vậy, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nghiên cứu, giáo dục nhân quyền là hết sức cần thiết nhằm tạo sự thống nhất nhận thức trong xã hội về quyền con người. 
a) Đề nghị Trung ương giao cho một cơ quan chủ trì (phối hợp với các cơ quan khác, như Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - đào tạo, Hội đồng lý luận Trung ương…) nghiên cứu xây dựng một “giáo trình chuẩn” và tổ chức triển khai việc giáo dục nhân quyền thống nhất, đồng bộ trong cả nước. Giáo trình này được xây dựng trên quan điểm đổi mới của Đảng ta về quyền con người.
b) Cần có một chiến lược, quan niệm và lộ trình cụ thể cho công tác giáo dục nhân quyền trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trước mắt, cùng với việc mở rộng tới mọi đối tượng học tập tại hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị tỉnh, trung tâm chính trị huyện/thị, cần nghiên cứu để giảng dạy nhân quyền trong các trường đại học, cao đẳng, nhằm trang bị tri thức nhân quyền đúng đắn cho học sinh, sinh viên. Cần kết hợp việc đào tạo cơ bản, chính quy với bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày, sao cho tất cả cán bộ trong bộ máy nhà nước đều được trang bị những kiến thức cơ bản về quyền con người.
c) Từng bước đào tạo, hình thành được đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về quyền con người (đạt trình độ thạc sĩ, tiến sĩ về nhân quyền)[1]. Cần coi trọng việc tập huấn về nhân quyền cho đội ngũ phóng viên, báo chí; tập hợp những cây bút tâm huyết, trang bị chuyên sâu về nhân quyền, hình thành đội ngũ đủ sức đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền...
d) Cùng với việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và những vấn đề đương đại đang nổi lên hiện nay, Trung ương nên giao cho một cơ quan, chẳng hạn như Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, hoặc Hội đồng lý luận trung ương, chủ trì một chương trình nghiên cứu tổng thể về quyền con người. Bên cạnh những vấn đề cơ bản về quyền con người (theo quan điểm của Liên hiệp quốc) và xu hướng nhân quyền hiện nay, Chương trình nghiên cứu này cần làm rõ vị trí vấn đề quyền con người trong chủ nghĩa xã hội; vấn đề quyền con người trong xã hội do Đảng cộng sản lãnh đạo theo định hướng XHCN; mối quan hệ giữa Hiến pháp với các quy định pháp luật khác về quyền con người, các điều kiện bảo đảm quyền con người; cơ chế giám sát nhân quyền ở Việt Nam; cần nghiên cứu, hình thành những luận cứ khoa học trên cơ sở pháp lý quốc tế và thực tiễn quốc gia phục vụ việc bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền...
e) Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học với các quốc gia, trước hết là các nước có cùng quan điểm với Việt Nam về vấn đề nhân quyền. Chú trọng tham khảo kinh nghiệm tổ chức nghiên cứu và kết quả nghiên cứu nhân quyền của các nước như Trung Quốc, Nga… 
2.2. Kiện toàn các cơ quan hiện đang tham gia bảo vệ nhân quyền
Cùng với việc không ngừng nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, trách nhiệm công vụ, thông qua các chương trình đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, cần tiếp tục kiện toàn các cơ quan hiện đang tham gia bảo vệ quyền con người. 
a) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ nhằm đảm đương tốt hơn việc chỉ đạo mọi hoạt động nhân quyền; đặc biệt là nhiệm vụ bảo đảm nhân quyền.
Trong khi chưa thành lập được cơ quan nhân quyền quốc gia, cần đầu tư xây dựng một cơ quan giúp việc cho Ban chỉ đạo nhân quyền Chính phủ, với đội ngũ cán bộ tương xứng với nhiệm vụ đang đặt ra hiện nay, có khả năng phối hợp nghiên cứu, giảng dạy và đáp ứng tốt các yêu cầu đối nội và đối ngoại của đất nước (ở Trung Quốc, Hội nghiên cứu nhân quyền có 166 người; Viện Nhà nước - pháp luật của Liên bang Nga có 350 người…với nhiều chuyên gia giỏi được thu hút từ nhiều ngành/lĩnh vực).
b) Kiện toàn các cơ quan, tổ chức có chức năng theo dõi, tư vấn, trợ giúp Chính phủ trên lĩnh vực nhân quyền. Đó là Bộ Tư pháp, Ủy ban Dân tộc của Chính phủ; Ban Tôn giáo; các Vụ/Cục về giới, về quyền trẻ em, về việc làm thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội …
c) Thành lập chức danh nhân quyền tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao nhằm giúp người đứng đầu các cơ quan này theo dõi, xử lý các vấn đề nhân quyền thuộc thẩm quyền.
2.3. Bổ sung cơ chế bảo vệ nhân quyền trên cơ sở các tổ chức hiện có
Kiện toàn và tăng thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức có chức năng theo dõi, phản biện Chính phủ về việc thực thi nhân quyền và các cơ quan tư pháp trong hoạt động xét xử. Đó là: Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Đối ngoại, Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban các Vấn đề xã hội, Ủy ban Thanh thiếu niên và nhi đồng thuộc Quốc hội. Hình thành cơ chế phối hợp về hoạt động giám sát và thúc đẩy quyền con người của các ủy ban thuộc Quốc hội.
 Cần thu hút sự tham gia tích cực hơn của một số Ban thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng thời bổ sung thêm một số cơ quan mới như: Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Luật gia, Hội Luật sư...
 Các phát hiện, tư vấn, kiến nghị của các cơ quan này có thể được chuyển tới Ban Bí thư, Thường vụ Quốc hội để kịp thời giải quyết.
2.4. Cơ quan nhân quyền quốc gia dựa trên Nguyên tắc Paris
Về lâu dài, cần nghiên cứu toàn diện nhằm tiến tới thành lập Ủy ban nhân quyền quốc gia. Đây là mô hình được nhiều nước lựa chọn so với mô hình cơ quan Thanh tra Quốc hội.
Về cơ sở pháp lý, theo quy định của Nguyên tắc Pari, dù theo mô hình nào thì các cơ quan này cũng phải được thành lập từ một quy định trong Hiến pháp hoặc trên cơ sở một đạo luật riêng biệt. Thực tiễn Việt Nam cho thấy, việc ban hành một đạo luật là thích hợp. Tuy nhiên, trong bối cảnh đang tiến hành sửa đổi Hiến pháp hiện nay, có thể bổ sung đoạn văn sau vào Hiến pháp mới “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, có cơ chế bảo vệ quyền con người”. Luận điểm này vừa nhằm khẳng định quyết tâm chính trị của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ nhân quyền, vừa như báo hiệu trước việc xây dựng một cơ chế bảo vệ nhân quyền mới trong tương lai.
 Cơ quan này chỉ có chức năng theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi nhân quyền, chứ không có chức năng trực tiếp giải quyết các khiếu nại, tố cáo những vi phạm nhân quyền. Phạm vi xem xét các vấn đề nhân quyền có thể bao gồm: Xem xét việc ban hành luật và văn bản dưới luật có phù hợp với Hiến pháp hay không; việc thực thi nhân quyền của Chính phủ; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử có theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật và theo hướng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người hay không. Cơ quan này còn có trách nhiệm xem xét báo cáo nhân quyền quốc gia; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc gia với các quy định của công ước nhân quyền và đề xuất kiến nghị.
Cơ quan này được đảm bảo tính độc lập tương đối, nhưng không “đối lập”, “đối trọng” với Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan tư pháp. Do đặc thù chính trị ở Việt Nam, hoạt động của cơ quan này phải nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn quyền con người, không phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Cần lựa chọn những người đã có nhiều năm công tác trên lĩnh vực bảo vệ pháp luật, có chuyên môn về nhân quyền, có uy tín xã hội; đặc biệt là kiên định với vai trò lãnh đạo của Đảng, định hướng XHCN, có bản lĩnh trong xử lý công việc và bảo vệ lẽ phải (Chủ tịch Uỷ ban nhân quyền quốc gia của các nước đều có mối quan hệ tốt, tin cậy từ Tổng thống, hay Thủ tướng Chính phủ).
Kinh nghiệm của Trung Quốc là Hội nhân quyền Trung Quốc - mặc dù được lãnh đạo chặt chẽ bởi Đảng cộng sản (người đứng đầu - Chủ tịch Hội - thường là Bộ trưởng đã nghỉ hưu, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký có hàm Thứ trưởng thuộc Văn phòng Nhà nước; các thành viên vẫn giữ chức vụ thuộc một Ban Đảng, như Ban Tuyên huấn, hoặc cơ quan Nhà nước khác), nhưng tổ chức này vẫn được xem là tổ chức phi chính phủ, có quy chế tư vấn tại Hội đồng Kinh tế, xã hội của Liên hiệp quốc (ECOSOC); đặc biệt, các thành viên của tổ chức này có uy tín cao trong xã hội Trung Quốc cũng như trên trường quốc tế - cả về phẩm hạnh cũng như tri thức nhân quyền. Kinh nghiệm Inđônêxia, Malaixia, Nga về bổ nhiệm chức vụ này cũng tương tự như vậy. Cách bố trí nhân sự này rất cần được tham khảo trong xây dựng và vận hành cơ quan nhân quyền ở Việt Nam.
2.5. Các phương án về cơ quan nhân quyền quốc gia
Xuất phát từ thực tiễn phức tạp của vấn đề nhân quyền ở nước ta trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng cơ quan nhân quyền quốc gia cần có sự chuẩn bị đầy đủ về kiến thức, kinh nghiệm, cơ sở pháp lý, chuyên gia, nhân sự... cho bộ máy. Lộ trình xây dựng cơ quan này ít nhất là 5-7 năm, qua hai giai đoạn: Giai đoạn trước mắt, khoảng năm năm tập trung thành lập và củng cố cơ quan Thanh tra về nhân quyền, củng cố, hoàn thiện các cơ quan nhà nước liên quan đến vấn đề nhân quyền, chuẩn bị các tiền đề cần thiết. Giai đoạn thứ hai, thành lập và hoàn thiện cơ quan nhân quyền quốc gia trên cơ sở bộ máy, đội ngũ cán bộ các cơ quan nhân quyền đã tồn tại.
2.5.1. Phương án 1 (trước mắt): Thành lập cơ quan Thanh tra Quốc hội về nhân quyền.
- Cơ sở pháp lý: Ra đời theo một đạo luật của Quốc hội; trực thuộc Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ của Quốc hội; người đứng đầu cơ quan Thanh tra do Quốc hội thông qua trên cơ sở đề xuất của Chủ tịch nước.
- Chức năng, nhiệm vụ: Theo dõi, tư vấn cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề nhân quyền trong và ngoài nước; giám sát các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp liên quan đến vấn đề tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền con người; xem xét, đánh giá việc thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên; soạn thảo báo cáo hàng năm về tình hình thực hiện quyền con người trình cơ quan có thẩm quyền; tiếp nhận và xử lý các đơn khiếu kiện, tố cáo liên quan đến những sai phạm trong thi hành và bảo vệ pháp luật, liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (thực thi chức năng hiện nay của Ban Dân nguyên của Quốc hội; một phần chức năng của Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Pháp luật, Ủy ban các Vấn đề xã hội...); thúc đẩy việc giáo dục nhân quyền; hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục nhân quyền, xây dựng năng lực và hỗ trợ thực hiện nhằm thúc đẩy các quyền con người với các cơ quan nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế có liên quan.
- Nhân sự: người đứng đầu phải: 1) Là một vị đại biểu Quốc hội đương nhiệm; 2) Từng giữ trọng trách trong Đảng và Chính quyền (nên là một Bộ trưởng hoặc tương đương đã nghỉ quản lý); 3) có phẩm chất đạo đức, am hiểu lĩnh vực nhân quyền và dày dạn kinh nghiệm; 4) hoạt động theo cơ chế độc lập với các cơ quan quyền lực nhà nước; 5) được miễn trừ trách nhiệm pháp lý mà không bị truy tố hay xem xét bởi Chủ tịch nước, Thủ tướng do thực hiện chức năng và thẩm quyền của mình; 6) được hưởng lương trực tiếp từ ngân sách nhà nước do Quốc hội thông qua (chế độ như một Phó Thủ tướng)[2]. Các thành viên khác gồm những người am hiểu pháp luật, chính trị, khoa học... đã được thử thách trong công tác. Lâu dài có thể có cơ sở ở miền Trung (Đà Nẵng) và miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh); cơ quan này không bị hành chính hóa trong hoạt động.
Có thể thay thế mô hình này bằng chức danh Văn phòng Nhân quyền quốc gia trực thuộc Chủ tịch nước (trong điều kiện tăng thẩm quyền cho Chủ tịch nước như đã nêu trong Cương lĩnh sửa đổi của Đảng và Hiến pháp sửa đổi tới đây). 
2.5.2. Phương án 2 (trong dài hạn): Thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia. 
- Cơ sở pháp lý: ra đời theo một đạo luật của Quốc hội; trực thuộc Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ của Quốc hội; người đứng đầu Ủy ban (Chủ tịch) do Quốc hội thông qua trên cơ sở đề xuất của Chủ tịch nước.
- Chức năng, nhiệm vụ: theo dõi, tư vấn cho Chủ tịch nước, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về các vấn đề nhân quyền trong và ngoài nước; nhận và giải quyết đơn khiếu kiện (sau khi đã sử dụng hết các trình tự thủ tục mà vẫn không đạt kết quả mong đợi); phát hiện bản chất vụ việc và đưa ra khuyến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về cách thức giải quyết (không được trao chức năng điều tra); xem xét, đánh giá việc thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên; soạn thảo báo cáo hàng năm về tình hình thực hiện quyền con người trình cơ quan có thẩm quyền; hợp tác quốc tế với các cơ quan nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế trên lĩnh vực giáo dục, xây dựng năng lực... về quyền con người.
- Nhân sự: người đứng đầu phải: 1) Từng giữ trọng trách trong Đảng và Chính quyền (nên là một Bộ trưởng hoặc tương đương đã nghỉ quản lý) và hiện vẫn đang là đảng viên; Được Chủ tịch nước đề xuất và Quốc hội thông qua theo đa số phiếu tán thành; 3) có phẩm chất đạo đức, trình độ/am hiểu lĩnh vực nhân quyền và dày dạn kinh nghiệm; 4) hoạt động theo cơ chế hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của các nhánh quyền lực nhà nước; 5) được miễn trừ trách nhiệm pháp lý mà không bị truy tố hay xem xét bởi Chủ tịch nước, Thủ tướng do thực hiện chức năng và thẩm quyền của mình; 6) được hưởng lương trực tiếp từ ngân sách nhà nước do Quốc hội thông qua (như các đại biểu Quốc hội cao cấp khác). Các thành viên khác gồm những người am hiểu pháp luật, chính trị, khoa học... đã được thử thách trong công tác. Lâu dài có thể có cơ sở ở miền Trung (Đà Nẵng) và miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh); cơ quan này không phải là cơ quan hành chính, không bị hành chính hóa trong hoạt động.
Ủy ban này trước mắt có thể trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có chức năng xem xét các thông tin liên quan đến sai phạm của cán bộ thực thi công vụ cũng như trong quá trình tố tụng và có thể độc lập tương đối với các bộ khác trong nội các.
2.5.3. Phương án 3 (ngắn hạn): Thành lập Hội đồng Nhân quyền quốc gia 
- Cơ sở pháp lý: ra đời theo một đạo luật của Quốc hội hay Lệnh (Order) hoặc Nghị định (Decree) của Chủ tịch nước; trực thuộc Chủ tịch nước; người đứng đầu Hội đồng (Chủ tịch) do Chủ tịch nước bổ nhiệm với chức vị tương đương bộ trưởng.
- Chức năng, nhiệm vụ: theo dõi, tư vấn cho Chủ tịch nước và các cơ quan quyền lực nhà nước về các vấn đề nhân quyền trong và ngoài nước; nhận đơn khiếu kiện (sau khi đã sử dụng hết các trình tự thủ tục mà vẫn không đạt kết quả mong đợi); phát hiện bản chất vụ việc và đưa ra khuyến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về cách thức giải quyết (không được trao chức năng điều tra); xem xét, đánh giá việc thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là quốc gia thành viên; soạn thảo báo cáo hàng năm về tình hình thực hiện quyền con người trình cơ quan có thẩm quyền; hợp tác quốc tế trên lĩnh vực giáo dục, phổ biến, tuyên truyền, xây dựng năng lực,... về quyền con người với các cơ quan nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế có liên quan.
- Nhân sự: người đứng đầu phải: 1) từng giữ trọng trách trong Đảng và Chính quyền (nên là một Bộ trưởng hoặc tương đương đã nghỉ quản lý) và hiện vẫn đang là đảng viên; 2) được Chủ tịch nước bổ nhiệm trực tiếp; 3) có phẩm chất đạo đức, trình độ/am hiểu lĩnh vực nhân quyền và dày dạn kinh nghiệm; 4) hoạt động theo cơ chế hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của các nhánh quyền lực nhà nước; 5) được miễn trừ trách nhiệm pháp lý một phần mà không bị truy tố hay xem xét bởi Thủ tướng do thực hiện chức năng, thẩm quyền của mình; các thành viên khác gồm những người am hiểu pháp luật, chính trị, khoa học... đã được thử thách trong công tác. Lâu dài có thể có cơ sở ở miền Trung (Đà Nẵng) và miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh); cơ quan này không bị hành chính hóa trong hoạt động

 


[1]Những năm qua, Trung Quốc đã xây dựng được đội ngũ cán bộ nhân quyền đủ sức tranh luận sòng phẳng với phương Tây mọi vấn đề nhân quyền gai góc nhất.
[2]Thanh tra Quốc hội Đan Mạch được hưởng chế độ như Thủ tướng; khi nghỉ hưu được hưởng chế độ như một Bộ trưởng đương chức.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 19(251), tháng 10/2013)