Một số vấn đề về hoạt động góp ý, phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam trong công tác xây dựng pháp luật

01/09/2013

NGUYỄN VĂN PHA

Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

I. Chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam
1. Chủ trương của Đảng
Chủ trương của Đảng về giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đoàn thể nhân dân đối với quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chính thức có từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006, trong đó có các nội dung đáng chú ý: “Phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội...” “… Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội"… "Xây dựng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ" (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X).
Tiếp đó, tại Đại hội XI và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá XI), Đảng tiếp tục ghi nhận và có các chủ trương cụ thể hơn:“Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)... “Định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội”.... “Trong năm 2012 ban hành quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp) của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; trong đó có cơ chế giám sát của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học; cơ chế để MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. (Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”).
2. Pháp luật của Nhà nước
Pháp luật của Nhà nước đã có rất nhiều văn bản quy định về giám sát của MTTQ Việt Nam (tính đến nay có khoảng trên 100 VBQPPL từ Hiến pháp, bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị quyết liên tịch, nghị định, thông tư...). Tuy nhiên, về phản biện xã hội thì rất tiếc là còn khá mờ nhạt. Các quy định về MTTQ Việt Nam tham gia xây dựng pháp luật có thể coi như  hình thức phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam đối với việc xây dựng chính sách pháp luật của Nhà nước. Đáng kể nhất có các quy định sau đây: 
 “MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên… động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước” (Điều 9 Hiến pháp năm1992).
 “MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội” (Điều 87, Hiến pháp 1992).
 “MTTQ Việt Nam… giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước” (Điều 2 Luật MTTQ Việt Nam).
“MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức khác, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL)… Trong quá trình xây dựng VBQPPL, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản… Ý kiến tham gia về dự thảo VBQPPL phải được nghiên cứu, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo” (Điều 4 Luật Ban hành VBQPPL).
“Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia quản lý nhà nước”(Điều 20 Luật Ban hành VBQPPL).
Có thể thấy, các quy định pháp luật về sự tham gia của Ủy ban MTTQ Việt Nam và tổ chức thành viên đối với hoạt động xây dựng pháp luật trong một số văn bản nêu trên chính là quy định về các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam đối với quá trình xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tuy chưa thật sự chặt chẽ về quyền và trách nhiệm của các bên.     
II. Hoạt động tham gia xây dựng pháp luật 
1. Hoạt động góp ý kiến, phản biện xã hội đối với các dự án luật
Trong những năm qua, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã phát huy vai trò của mình trong việc tham gia góp ý vào các dự án luật, trong đó chủ yếu là những dự án luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và về tổ chức bộ máy nhà nước.
Các chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh toàn khóa và hàng năm của Quốc hội luôn được UBTVQH gửi lấy ý kiến của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam trước khi trình Quốc hội xem xét quyết định. Ngoài việc tham gia vào chương trình chung, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam còn chủ động đề xuất với Chính phủ, UBTVQH thể chế hóa những nội dung liên quan đến việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền, trách nhiệm của MTTQ Việt Nam. 
Sự phối hợp của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên đã góp phần giúp Quốc hội, UBTVQH trong việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới nhiều luật, pháp lệnh và nghị quyết liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước.
Hầu hết các dự án luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của MTTQ Việt Nam, đến tổ chức bộ máy nhà nước... đều được các cơ quan chủ trì soạn thảo mời đại diện của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và một số tổ chức thành viên tham gia ban soạn thảo, tổ biên tập. Việc gửi lấy ý kiến Mặt trận và một số tổ chức thành viên của Mặt trận góp ý vào các dự án luật liên quan được các cơ quan chủ trì soạn thảo, Chính phủ và UBTVQH thực hiện về cơ bản tuân thủ đúng quy định của Luật ban hành VBQPPL.
Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã thành lập 07 Hội đồng tư vấn bao gồm nhiều chuyên gia, nhà khoa học để giúp cho Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tham gia góp ý, phản biện các dự án chính sách, pháp luật có liên quan. Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2009, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam góp ý, phản biện 05 VBQPPL; năm 2010 góp ý, phản biện 10 VBQPPL; năm 2011 góp ý, phản biện 19 VBQPPL; năm 2012 góp ý, phản biện 38 VBQPPL; 4 tháng đầu năm 2013 góp ý, phản biện 06 VBQPPL. Một số tổ chức thành viên cũng có nhiều cách làm phong phú để phát huy trí tuệ của các chuyên gia, các thành viên tham gia có chất lượng vào việc góp ý, phản biện một số dự án chính sách, pháp luật, chương trình, dự án kinh tế - xã hội của Nhà nước. Các tổ chức thành viên, nhất là các tổ chức chính trị - xã hội trong 04 năm qua đã tham gia góp ý, phản biện nhiều VBQPPL[1].
Nhiều bản góp ý của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên được cơ quan soạn thảo tiếp thu, qua đó góp phần làm cho các văn bản pháp luật được thông qua ngày càng sát với thực tiễn và có tính khả thi hơn. Trên thực tế, hoạt động này của MTTQ Việt Nam lâu nay được thực hiện chủ yếu ở cấp Trung ương mà nòng cốt là Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và trung ương một số tổ chức thành viên của Mặt trận. Hoạt động này đối với các cấp Mặt trận ở địa phương nhìn chung là còn nhiều hạn chế và không đồng đều giữa các địa phương.
Thời gian vừa qua, thực hiện Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã chủ động triển khai trong hệ thống Mặt trận, làm tốt từ công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức nhiều hình thức để nhân dân tham gia góp ý, tạo ra một đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý rộng khắp, thu hút được sự quan tâm và tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân góp ý kiến vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Quá trình triển khai lấy ý kiến nhân dân của hệ thống MTTQ Việt Nam được tiến hành dân chủ, rộng rãi, công khai, bảo đảm tiến độ, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm. Những góp ý vào Dự thảo đã được tập hợp một cách đầy đủ, chân thực, nhằm phản ánh đầy đủ nhất ý chí, nguyện vọng của nhân dân trước các vấn đề lớn của đất nước gửi tới Ủy ban sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Có thể nói, việc lấy ý kiến góp ý và phản biện xã hội của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và một số tổ chức thành viên đối với các dự thảo VBQPPL về cơ bản tuân thủ đúng quy định của Luật ban hành VBQPPL. Nhiều cơ quan chủ trì soạn thảo chủ động gửi văn bản đề nghị Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên góp ý. Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và một số tổ chức thành viên đã đổi mới phương thức góp ý bằng cách tổ chức và phát huy trí tuệ của đội ngũ tư vấn, cộng tác viên, các đoàn viên, hội viên; ngoài hình thức thảo luận góp ý theo hình thức hội nghị, đối với một số dự án luật quan trọng, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để tăng cường tính đối thoại, phản biện, giúp cho các văn bản góp ý có chất lượng hơn.
2. Tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật  
Trong những năm qua, căn cứ vào quy định của pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của mình, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên đã tích cực tham gia công tác xây dựng VBQPPL để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên một số lĩnh vực có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên.
Thực hiện quyền sáng kiến pháp luật theo quy định của Hiến pháp và Luật Ban hành VBQPPL, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và một số tổ chức thành viên như Công đoàn Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam đã chủ động chuẩn bị và đề nghị UBTVQH trình Quốc hội ra Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và được giao chủ trì soạn thảo một số VBQPPL[2]. Các dự án luật, pháp lệnh do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên chủ trì soạn thảo luôn có sự quan tâm của lãnh đạo các cơ quan, tổ chức và nhận được sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ của nhiều cơ quan nhà nước. Việc Quốc hội và UBTVQH xem xét thông qua một số luật, pháp lệnh có đối tượng điều chỉnh liên quan trực tiếp đến Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên đã góp phần quan trọng cho công tác đổi mới về tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam, nhất là trong công tác tham gia, xây dựng, củng cố chính quyền.      
Giai đoạn từ năm 2000 đến 2008, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã cùng với một số cơ quan ở trung ương xây dựng, ban hành 11 VBQPPLliên tịch, trong đó đáng chú ý là các nghị quyết liên tịch với Chính phủ, Chủ tịch nước và UBTVQH, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao[3]; các tổ chức thành viên, nhất là các tổ chức chính trị - xã hội (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam), Hội Luật gia Việt Nam, Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam… cũng đã xây dựng, ban hành nhiều VBQPPLliên tịch với các cơ quan, tổ chức ở trung ương.
Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 thay thế Luật Ban hành VBQPPL năm 1996 tiếp tục quy định về hình thức nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH, Chính phủ với cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội; bỏ hình thức thông tư liên tịch giữa các tổ chức chính trị - xã hội đối với các bộ, ngành trung ương. Tuy nhiên Luật cũng quy định “văn bản liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được ban hành trước khi Luật này có hiệu lực thì vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi bị bãi bỏ, hủy bỏ hoặc được thay thế bằng VBQPPL khác”[4].
Từ khi Luật Ban hành VBQPPL năm 2008 có hiệu lực đến nay, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã phối hợp với UBTVQH và Chính phủ xây dựng, ban hành 03 Nghị quyết liên tịch[5]. Các tổ chức thành viên như Công đoàn, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã ký kết nghị quyết liên tịch với Chính phủ ban hành quy chế phối hợp hoạt động giữa Chính phủ và Ban Chấp hành Trung ương các tổ chức. Riêng với các thông tư liên tịch giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam với một số bộ, ngành như Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Công an, Bộ Y tế, Tòa án nhân dân tối cao… đang có hiệu lực pháp luật, khi có nhu cầu sửa đổi, bổ sung thì được tiến hành bằng hai cách: hoặc là Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thống nhất với cơ quan nhà nước hữu quan về nội dung để cơ quan nhà nước ban hành thông tư hướng dẫn[6]; hoặc là hai bên phối hợp ban hành hình thức hướng dẫn khác (không phải là VBQPPL) để thực hiện các vấn đề liên quan đến quyền và trách nhiệm giữa hai bên[7].  
Qua theo dõi hoạt động này các năm qua, chúng tôi nhận thấy, công tác tham gia xây dựng VBQPPLcủa MTTQ Việt Nam đã góp phần khá quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến việc tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường đồng thuận trong xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, của hội viên, đoàn viên và nâng cao hiệu quả các phong trào do MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên chủ trì, phối hợp thực hiện. Các nghị quyết liên tịch do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và một số tổ chức thành viên tham gia soạn thảo, ký kết với các cơ quan nhà nước ở trung ương đều phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật, dân chủ, minh bạch và có tính khả thi cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong công tác xây dựng, ban hành VBQPPL, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại như: một số chủ trương, đường lối của Đảng về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của MTTQ Việt Nam trong tình hình mới chưa được cụ thể hóa kịp thời; có những luật liên quan đến MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên được Quốc hội thông qua nhưng nội dung, chính sách chủ yếu là những quy định mang tính nguyên tắc, chưa rõ ràng về cơ chế, quy định còn chung chung và giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định; nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với hiệu lực của luật; một số quy định thiếu đồng bộ dẫn đến việc áp dụng luật còn khó khăn, hiệu quả chưa cao.
3. Một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động góp ý, phản biện và tham gia xây dựngvăn bản quy phạm pháp luật   
- Thực hiện quyền và trách nhiệm của Uỷ ban MTTQ và các tổ chức thành viên
Theo quy định tại Điều 4 của Luật Ban hành VBQPPL, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo VBQPPL. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động này của MTTQ Việt Nam mới được thực hiện chủ yếu ở cấp trung ương; việc tham gia góp ý, phản biện của MTTQ Việt Nam chỉ tiến hành khi được cơ quan Nhà nước yêu cầu; chưa có cơ chế cụ thể, rõ ràng để Mặt trận kiến nghị với Quốc hội, UBTVQH, Chính phủ ban hành VBQPPL mới, sửa đổi, bổ sung văn bản cho phù hợp đời sống kinh tế - xã hội hoặc xem xét hủy bỏ những văn bản pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn.
Mặc dù Hiến pháp và Luật Ban hành VBQPPLquy định MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội, nhưng việc thực hiện quyền này còn ở mức độ rất hạn chế (đây cũng là tình trạng chung của các chủ thể có quyền tương tự, trừ Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội). Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào các dự án luật ở một số nơi còn hình thức, chưa thực sự phát huy đầy đủ trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học, ý kiến của các tầng lớp nhân dân. Trong điều kiện cán bộ Mặt trận các cấp am hiểu luật pháp còn ít, kinh phí hạn hẹp nên việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào một số dự án luật lớn chưa được sâu rộng, việc tập hợp, tổng hợp ý kiến nhân dân nhìn chung còn yếu và chưa kịp thời.
- Trách nhiệm các cơ quan chủ trì soạn thảo
Công tác xây dựng pháp luật ngày càng được thực hiện công khai, minh bạch; tuy nhiên việc tổ chức lấy ý kiến, tạo cơ chế thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức trong hệ thống Mặt trận và đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia góp ý kiến, phản biện xã hội đối với các VBQPPL còn hạn chế. Phần lớn các VBQPPLkhi xây dựng chỉ được đưa ra lấy ý kiến của một số cơ quan ban ngành có liên quan ở trung ương (trong khối MTTQ Việt Nam chủ yếu chỉ có Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, 05 tổ chức chính trị - xã hội và Hội Luật gia Việt Nam được hỏi ý kiến). Do vậy, nhiều dự án luật chưa thực sự huy động được sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều chủ thể khác nhau. Hình thức cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến công khai trên cổng thông tin điện tử chưa thu hút được sự tham gia của đông đảo người dân và thiếu cơ chế phản hồi, tiếp thu các ý kiến góp ý.
Những văn bản góp ý do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và tổ chức thành viên gửi đến các cơ quan hữu quan chủ trì soạn thảo, do không có cơ chế cụ thể nên việc góp ý chỉ là một chiều và hình thức, thiếu cơ chế về trách nhiệm phản hồi; các cơ quan chủ trì soạn thảo có tiếp thu, tiếp thu ở mức độ nào hoặc không tiếp thu thì cơ quan gửi văn bản góp ý kiến không được biết. Thêm vào đó, thời gian gửi lấy ý kiến thường rất gấp, không bảo đảm quy định; hồ sơ, tài liệu gửi lấy ý kiến nhiều dự án không đầy đủ, sơ sài, thiếu các thông tin cần thiết; một số dự án có quan điểm xây dựng, sửa đổi thiếu nhất quán...
- Việc chấp hành các quy định của Luật Ban hành VBQPPL của một số cơ quan nhà nước chưa đầy đủ. Chính vì vậy đã có không ít cơ quan quản lý nhà nước xây dựng và ban hành các VBQPPL không đúng về đối tượng, sai về thể thức văn bản, không đúng thẩm quyền ban hành. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát việc xây dựng và ban hành VBQPPL của Nhà nước đối với các bộ, ngành ở trung ương và địa phương chưa được thực hiện thường xuyên, thiếu chặt chẽ, vì vậy trên thực tế đã xảy ra trường hợp VBQPPLđược ban hành có sai phạm nhưng chỉ đến khi áp dụng vào thực tiễn thì mới được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện ra.
3. Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế
- Các quy định pháp luật về sự tham gia của Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong hoạt động xây dựng pháp luật còn chung chung, chẳng hạn: “Trong quá trình xây dựng VBQPPL, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản”(Điều 4 Luật Ban hành VBQPPL). Vì thế, khó thu hút được các cơ quan, tổ chức cũng như huy động được nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn và nhân dân tham gia.
- Chủ trương của Đảng về phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chậm được thể chế hoá, cụ thể hoá tạo cơ sở cho Mặt trận thực hiện trách nhiệm phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Việc tiếp thu, phản hồi các ý kiến góp ý của các cơ quan chủ trì soạn thảo chưa tốt. Trên thực tế, cơ quan soạn thảo chỉ tổng hợp và giải trình ý kiến góp ý trong hồ sơ trình các cơ quan thẩm định, thẩm tra, thường các cơ quan soạn thảo không có sự phản hồi công khai về việc nhận được bao nhiêu ý kiến, nội dung ý kiến và đặc biệt là tiếp thu các ý kiến như thế nào.
III. Một số kiến nghị
1. Xây dựng và ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Uỷ ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội
Như trên đã nêu, văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 đều có chủ trương và nêu yêu cầu xây dựng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Nhân đây cũng xin được bàn thêm: Văn kiện của Đảng thì ghi là Quy chế giám sát và phản biện xã hội của“MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội”.Cũng có văn bản lại ghi là “...MTTQ, các đoàn thể nhân dân” hoặc “MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội”. Như vậy có sự khác nhau về cách viết giữa một số văn kiện của Đảng. Tuy nhiên chúng ta đều hiểu Đảng muốn nói về Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là thành viên của Mặt trận. Vì vậy để thống nhất cách gọi trong hệ thống tổ chức của MTTQ Việt Nam và cũng là phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành, chúng tôi đề nghị thống nhất cách gọi là “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội”.
Theo nghiên cứu bước đầu, chúng tôi đề nghị cụ thể những nội dung chính cần đưa vào Quy chế:
- Hoạt động giám sát cần quy định các nội dung sau:
 Chủ thể giám sát bao gồm: Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và nhân dân.
Đối tượng giám sát: hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân của bộ máy Đảng, Nhà nước.
Nội dung giám sát: các công việc, lĩnh vực mà Ủy ban MTTQ cũng như các tổ chức chính trị - xã hội được giám sát, chủ yếu là giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, việc thực thi chức năng, nhiệm vụ, công tác tổ chức và cán bộ; tư cách, đạo đức, lối sống của cán bộ, công chức, đảng viên.
Hình thức giám sát: quy định các hình thức giám sát phù hợp với từng đối tượng nêu trong từng Quy chế.
Quyền và trách nhiệm của chủ thể giám sát và đối tượng được giám sát: Quy định các quyền cũng như trách nhiệm của chủ thể giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát một cách cụ thể và rõ ràng để khi triển khai thực hiện thuận lợi và hiệu quả.
Cơ chế xử lý kiến nghị giám sát: quy định tổ chức, cá nhân khi nhận được kiến nghị giám sát phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời trong thời hạn nhất định; có văn bản trả lời về việc xử lý; quy định việc gửi kiến nghị lên cấp trên của cơ quan, tổ chức được giám sát trong trường hợp cơ quan, tổ chức này không xem xét, xử lý hoặc chủ thể giám sát có kiến nghị giám sát mà không đồng ý với quyết định xử lý đó.
 - Hoạt động phản biện xã hội cần quy định những nội dung sau:
Chủ thể phản biện xã hội: Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp và nhân dân. 
Đối tượng phản biện xã hội: là dự thảo các chủ trương, chính sách, nghị quyết của cơ quan, tổ chức Đảng, các đề án về tổ chức cán bộ của cấp uỷ Đảng các cấp, dự thảo các văn bản pháp luật, các chương trình, dự án của Nhà nước, trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia.
 Nội dung phản biện xã hội: là những nội dung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của đông đảo các tầng lớp nhân dân, đến tổ chức bộ máy nhà nước và quyền, trách nhiệm của MTTQ Việt Nam được nêu trong các dự thảo các văn bản của cơ quan, tổ chức Đảng; dự thảo các văn bản pháp luật, các chương trình, dự án, đề án của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hình thức phản biện xã hội: quy định các hình thức phản biện phù hợp với từng đối tượng văn bản nêu trong Quy chế.
Quyền và trách nhiệm của chủ thể phản biện xã hội và cơ quan chủ trì soạn thảo: quy định đầy đủ các quyền và trách nhiệm của Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với việc phản biện xã hội; quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc cung cấp tài liệu, tiếp thu hoặc giải trình kiến nghị về phản biện.
Cơ chế xử lý kiến nghị phản biện xã hội: quy định cụ thể trình tự xem xét, xử lý các kiến nghị, bảo đảm kịp thời, nhanh chóng và đạt hiệu quả thiết thực...
- Điều kiện bảo đảm hoạt động giám sát và phản biện xã hội
Căn cứ nội dung Quy chế, các cơ quan của Đảng cụ thể hoá thành các quy định của Đảng; Quốc hội, Chính phủ thể chế hoá thành các VBQPPL để tổ chức thực hiện. Theo đó cần đáp ứng các nội dung sau:
+ Hàng năm, cơ quan, tổ chức các cấp có trách nhiệm gửi chương trình, kế hoạch về các dự thảo đề án, dự án cần giám sát, phản biện xã hội đến Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp.
+ Hàng năm, Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng chương trình giám sát, phản biện xã hội.
+ Về nguồn lực và tài chính:quy định sự động viên rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các cá nhân tiêu biểu, tổ chức thành viên của Mặt trận, các Hội đồng tư vấn và cộng tác viên là chuyên gia trên các lĩnh vực, các hoạt động chuyên môn của các thành viên, hội viên, đoàn viên trong việc tham gia giám sát và phản biện xã hội. Nguồn tài chính đối với hoạt động giám sát và phản biện xã hội do ngân sách nhà nước cấp và từ các nguồn hỗ trợ của dự án, đề án nếu có.
+ Quy định khen thưởng để khuyến khích các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện việc giám sát cũng như phản biện xã hội; xử lý các vi phạm nhằm thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả khi Quy chế được ban hành.
2. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về góp ý, phản biện xã hội trong hoạt động tham gia xây dựng pháp luật của MTTQ Việt Nam 
- Sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành VBQPPL năm 2008và Luật Ban hành VBQPPL của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân theo hướng hợp nhất hai văn bản này làm một. Từ đó xác định rõ thẩm quyền các cơ quan được ban hành VBQPPL, loại VBQPPL được ban hành; quy định cụ thể hơn việc Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên tham gia xây dựng pháp luật, từ khâu trình sáng kiến pháp luật, tham gia xây dựng và cho ý kiến về chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội đến khâu tham gia thành viên ban soạn thảo, tổ biên tập các dự án luật và tham gia góp ý các dự án luật; cơ chế góp ý kiến và trách nhiệm của các cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc gửi dự thảo và phúc đáp những kiến nghị của Mặt trận trong công tác tham gia xây dựng pháp luật. Khôi phục lại quy định về hình thức Thông tư liên tịch giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội đối với các bộ, ngành trung ương như Luật Ban hành VBQPPL năm 1996, vì đây là hình thức VBQPPL có tác dụng tốt trong thực tiễn.
- Bổ sung vào Luật Ban hành VBQPPLmột chương về quy trình lập hiến, trong đó có một số điều quy định về vai trò, trách nhiệm, quyền của MTTQ Việt Nam và các chủ thể khác trong việc tham gia xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, tổ chức lấy kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, các hình thức lấy ý kiến nhân dân, thể hiện được chủ quyền nhân dân trong xây dựng Hiến pháp

 


[1]Các tổ chức như Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong 04 năm qua đã tham gia phản biện 11 Dự án luật, góp ý vào 178 dự thảo văn bản QPPL, phối hợp tham gia xây dựng 05 văn bản QPPL; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong năm 2011 đã góp ý 48 dự thảo văn bản, năm 2012 góp ý 72 dự thảo VBQPPL; Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phối hợp tham gia xây dựng 01 văn bản QPPL, tham gia góp ý kiến 138 văn bản; Hội Người cao tuổi Việt Nam tham phối hợp tham gia xây dựng 01 văn bản QPPL, gia góp ý kiến 09 dự thảo văn bản; Liên đoàn Luật sư Việt Nam tham gia góp ý kiến 24 dự thảo văn bản; Hội Cựu chiến binh Việt Nam phối hợp tham gia xây dựng 01 văn bản QPPL, tham gia góp ý kiến hàng chục dự thảo VBQPPL…
 
[2]Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chủ trì soạn thảo Dự án Luật MTTQ Việt Nam (sửa đổi); Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam chủ trì soạn thảo Luật Công đoàn (sửa đổi); Hội Luật gia Việt Nam chủ trì soạn thảo Luật Trọng tài thương mại, Dự án Luật Trưng cầu ý dân; Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam chủ trì soạn thảo Luật Người cao tuổi; Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo Luật Thanh niên, Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam chủ trì soạn thảo Pháp lệnh Cựu chiến binh, Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam chủ trì soạn thảo Luật Hoạt động chữ thập đỏ.
[3] Nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (Số 01/2003/UBTVQH11-MTTQVN, ngày 28/3/2003), Nghị quyết liên tịch giữa Chủ tịch nước và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (số 01/2004/QC/CTN-MTTQVN ngày 09/01/2004); Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (số 01/2004/QCPHCT/BTTUBTWMTTQVN-VKSTC ngày 11/10/2004); Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (số 19/2008/NQLT/CP-UBTWMTTQVN ngày 22/8/2008)  và một số nghị quyết liên tịch khác.
[4] Điều 95 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008.
[5] Nghị quyết liên tịch số 01/2011/NQLT/UBTVQH-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 08/02/2011 của UBTVQH - Chính phủ - Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về việc ban hành Quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Quốc hội và những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Nghị quyết liên tịch số 02/2011/NQLT/UBTVQH-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 08/02/2011 của UBTVQH, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về hướng dẫn tổ chức hội nghị lấy ý kiến của cử tri nơi công tác và nơi cư trú về những người ứng cử đại biểu Quốc hội và những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH13-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 27/9/2012 của UBTVQH và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội.
[6] Thông tư số 03/2009/TT-TANDTC, ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân.
[7] Chương trình phối hợp giữa Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”.

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17(249), tháng 9/2013)


Thống kê truy cập

32991486

Tổng truy cập