Dân chủ và việc thực hiện quyền dân chủ

01/01/2003

THS. HOÀNG VĂN NGHĨA

Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

 
Dân chủ là gì,phát triển như thế nào trong tiến trình lịch sử nhân loại, các hình thức của dân chủ, mối quan hệ dân chủ - pháp luật, quyền dân chủ là gì? Sau khi trình bày những nội dung trên đâyvề dân chủ, tác giả điểm lại tình hình thực hiện dân chủ và quyền dân chủ ở nước ta thời kỳ đổi mới và đề xuất một số biện pháp để tăng cường dân chủ.
  
I. Khái luận chung về dân chủ và quyền dân chủ 
Dân chủ - phạm trù lịch sử và phạm trù nhân văn
Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định. Là hình thức tổ chức chính trị của Nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, như vậy dân chủ là một phạm trù lịch sử, cũng như các biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội, dân chủ do tồn tại xã hội quyết định, do phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định; và do đó, trình độ của phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn đến sự khác nhau về trình độ dân chủ (mức độ thực hiện dân chủ và dân chủ hoá trong xã hội). Dân chủ biến đổi và phát triển không ngừng cả về chất và lượng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người. Tuy nhiên, dân chủ với tính cách là giá trị xã hội, là thành quả giá trị nhân văn trước hết được sinh ra từ phương thức tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và cấu kết cộng đồng giữa người với người thì đã tồn tại ngay từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Và do đó, với ý nghĩa này, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, là một trong những phương thức tồn tại của con người ngay cả khi Nhà nước đã biến mất. hình-thức-dân-chủ-trực-tiếp-và-dân-chủ-đại-diện.jpg
Pháp luật- sự bảo đảm cho dân chủ
Khác với hình thức khác của thiết chế nhà nước, trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi công dân, tính tối cao của pháp luật được chính thức thừa nhận; đồng thời, các cơ quan quyền lực phải do bầu cử mà ra. ở đây, pháp luật được xem là nguyên tắc tối thượng của việc xây dựng thiết chế, quản lý và điều hành xã hội, là nền tảng của trật tự xã hội và là chuẩn mực có tính chất cưỡng chế nhằm điểu chỉnh hành vi của các cá nhân và các quan hệ trong xã hội. Nếu không có sự đề cao nguyên tắc tối thượng của pháp luật thì sẽ không có dân chủ, hay đúng hơn là dân chủ không thể được nảy sinh và tồn tại trên nền tảng của một xã hội mà ở đó các quan hệ xã hội và hành vi của con người hầu như chỉ được điều chỉnh bởi các chuẩn mực đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán thuần tuý. Các chuẩn mực như vậy chưa thể tạo ra cơ sở pháp lý cho sự nảy sinh dân chủ, bởi lẽ những cam kết và chuẩn mực có tính chất chính trị, đạo đức, tôn giáo, phong tục không đủ vững chắc và bảo đảm cho việc thực hiện quyền tự do lựa chọn người đứng đầu quốc gia, chức sắc tôn giáo hay quyền tự do phế truất,... cũng như không thể giúp cho các công dân có quyền tự do ứng cử vào các cơ quan của Nhà nước và chính quyền địa phương để tham gia vào việc giám sát, thực thi, điều hành và quản lý tất cả mọi hoạt động của xã hội và của Nhà nước. Những điều này chỉ có thể được hiện thực hoá từng bước tuỳ theo trình độ phát triển của xã hội đó, ở trong một xã hội mà những cam kết về sự tự do của công dân hay cá nhân ấy phải được ghi nhận và quy định thành luật, nghĩa là trong một xã hội được tổ chức chặt chẽ bởi thiết chế luật pháp. 
 Các hình thức dân chủ
     Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức biểu hiện của cùng thực thể dân chủ, cả hai hình thức này đều đóng một vai trò quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ, là hai hình thức không thể thiếu được của việc quản lý, điều hành, kiểm soát và thực thi quyền lực của nhân dân. Việc vận dụng chúng hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình cụ thể. Giữa hai hình thức này có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại và chuyển hoá cho nhau. Để thực hiện được dân chủ đại diện thì phải cần đến dân chủ trực tiếp, chẳng hạn việc bầu cử lựa chọn ra các đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân, nghĩa là trước khi mỗi công dân chuyển giao quyền lực của mình cho người đại diện ư những đại biểu dân cử và cho Nhà nước thì họ đã phải thực hiện dân chủ trực tiếp bằng cách: thứ nhất, tham gia vào hội nghị hiệp thương nhân dân để lựa chọn các ứng cử viên hoặc thông qua tiếp xúc trực tiếp với một hay một số ứng cử viên mà mình sẽ lựa chọn; thứ hai, thông qua việc bỏ phiếu kín, trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, công bằng, công khai và minh bạch, để lựa chọn cho mình một đại biểu ưu tú dựa trên ý chí quyết định của chính mình. Ngược lại, đến lượt mình, các đại biểu Quốc hội (nghị sĩ) khi thực hiện quyền lực của công dân (cử tri) giao cho thì lại cần phải dựa trên phương thức dân chủ trực tiếp, nghĩa là tham gia một cách trực tiếp và thể hiện ý chí của mình trong việc lập pháp cũng như các công việc quan trọng khác của Nhà nước.
    Chế độ xã hội của nước ta dựa trên nền dân chủ đại diện, nhưng không có nghĩa đó là hình thức dân chủ duy nhất, bởi vì bản thân dân chủ đã luôn luôn bao chứa trong nó cả hai hình thái tồn tại và chỉ có như vậy thì dân chủ mới thực hiện theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, mà cần phải thấy rằng chính hình thức dân chủ trực tiếp là nội dung, là cái quyết định đối với nền dân chủ đại diện này. Chỉ khi nào mức độ dân chủ trực tiếp được hiện thực hoá một cách đầy đủ, hiệu quả và sâu rộng thì đó chính là tiền đề quan trọng cho việc thực hiện tốt hình thức dân chủ đại diện và nền dân chủ đại diện. Chẳng hạn, khi quyền làm chủ của nhân dân đã được uỷ thác cho những đại diện của mình ưđại biểu Quốc hội thì đòi hỏi những đại biểu này cần thường xuyên lắng nghe và phản ánh về những vấn đề thiết yếu hàng ngày của người dân. Những cuộc tiếp xúc trực tiếp với các cử tri và xử lý kiến nghị của cử tri cũng chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp giúp cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cấp đại diện (Quốc hội) được bảo đảm hiệu quả hơn, phản ánh đúng và sâu sát với những bức xúc, trăn trở của nhân dân. Hơn nữa, quyền lực của nhân dân do được thực hiện thông qua người đại diện của mình (đại biểu Quốc hội) cho nên đôi khi nó “bị khúc xạ” qua lăng kính trình độ và trách nhiệm của những người đại biểu. Do vậy, việc thực hiện dân chủ đại diện không thể tách rời dân chủ trực tiếp còn ở chỗ dân chủ trực tiếp chính là thước đo và là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm, giám sát và đánh giá dân chủ gián tiếp. Chẳng hạn, trước khi một dự luật được Quốc hội thông qua hay một chính sách, nghị định nào của Chính phủ được ban hành thì điều hết sức quan trọng là nó cần phải được gửi cho tất cả mọi công dân để lấy ý kiến của nhân dân, hoặc phải tiến hành trưng cầu dân ý ư đây chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp. Hình thức này cần phải được coi là nền tảng để thực hiện dân chủ trực tiếp cũng như là cơ chế hết sức quan trọng để thực hiện quyền dân chủ của mọi công dân. Nghĩa là, trưng cầu dân ý cần phải trở thành nguyên tắc Hiến định đối với hoạt động thực thi và giám sát quyền lực của nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở là hết sức quan trọng và cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp nhưng như thế vẫn chưa đủ, cần phải xây dựng một dự luật về trưng cầu dân ý. Chỉ có như vậy mới giúp cho việc lập pháp và việc hoạch định chính sách tránh được những bất cập, thiếu tính khả thi và chưa thực sự hiệu quả.
     Nguyên tắc nền tảng của việc thực thi và bảo đảm dân chủ đó là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ mục đích như vậy, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu này. Tổng thể các biện pháp này tạo ra một cơ chế hữu hiệu và duy nhất cho việc bảo đảm và thực thi quyền dân chủ rộng rãi trong xã hội. Chẳng hạn, nếu dân không được biết, không được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, vào công việc của Nhà nước nghĩa là dân đã không được bảo đảm các quyền chính trị của mình. Dân không “biết”, dân sẽ không thể “bàn” được, và do đó sẽ không “làm” được và không thể “kiểm tra” được quá trình hay công việc đó. 
Quyền dân chủ
      Quyền dân chủ chính là những yêu sách, nhu cầu nội tại của mỗi cá nhân, với tư cách là công dân đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực pháp lý dân chủ trong một thiết chế xã hội dân chủ nhằm bảo đảm sự tham gia một cách tự do, bình đẳng và đầy đủ vào các công việc của Nhà nước và toàn bộ đời sống xã hội của con người. Quyền dân chủ thực chất chính là yêu sách về bình đẳng chính trị và xã hội của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với Nhà nước, bảo đảm cho cá nhân khả năng hành động theo ý mình, cho sự tự quyết định và làm chủ ý chí của mình mà không có hại cho người khác, và do đó cho khả năng giải phóng toàn diện những năng lực bản chất người của mỗi cá nhân. Ph.Ăngghen khẳng định: “từ sự bình đẳng của mọi người với tư cách là những con người, rút ra cái quyền có một giá trị ngang nhau về chính trị và xã hội cho tất cả mọi người, hay ít ra là cho công dân trong một nước, hay cho mọi thành viên trong xã  hội”1.
      Như vậy, quyền dân chủ trước hết là quyền con người; hơn nữa, nó nhấn mạnh đặc biệt đến các quyền về chính trị như là khả năng và điều kiện tiên quyết để thực hiện đầy đủ các quyền con người cơ bản khác. Bởi vì, sự giải phóng về chính trị là điều kiện tiên quyết đối với mọi sự giải phóng khác của con người, bình đẳng về chính trị là tiền đề của mọi sự bình đẳng. Hay nói cách khác, các quyền về chính trị (tự do bầu cử, ứng cử, tự do ngôn luận, tự do lập hội, hội họp, tự do báo chí...), một mặt, là tiền đề cho việc hiện thực hoá các quyền khác, mặt khác, là sự phản ánh về mức độ giải phóng “năng lực bản chất người” của mỗi cá nhân. Nó chính là nội dung cốt lõi của quyền con người, nó khẳng định con người là “một nhân tính tự do”“một nhân cách ư văn hoá” và “chủ thể sáng tạo của lịch sử và của giới tự nhiên”. Chính vì vậy, các nhà kinh điển mácưxít đã đặc biệt nhấn mạnh đến các quyền về chính trị như là bản chất của quyền dân chủ: “Vì thế, yêu sách khẩn cấp của công nhân và nhiệm vụ trước tiên để giai cấp công nhân có ảnh hưởng đến công việc của nhà nước là phải giành được tự do chính trị, nghĩa là tất cả mọi công dân đềuđược pháp luật đảm bảo cho họ trực tiếp tham gia việc quản lý nhà nước, tất cả mọi công dân đều được quyền tự do hội họp, bàn bạc công việc của mình, kinh qua các hội của mình và báo chí mà ảnh hưởng đến công việc của nhà nước. Giành lấy tự do chính trị trở thành “một việc làm khẩn cấp đối với công nhân” bởi vì không có tự do chính trị, không có và không thể có ảnh hưởng gì đến công việc của nhà nước và như vậy thì tất nhiên họ vẫn là một giai cấp không có quyền, bị lăng nhục và không được bày tỏ ý kiến của mình”2.
     Quyền dân chủ còn là một giá trị xã hội của con người đã được thể chế hoá thành hệ thống pháp luật của một nhà nước nhất định, gắn với một hệ thống chính trị nhất định dựa trên một trình độ phát triển nhất định về kinh tế và văn hoá. Vì vậy, quyền dân chủ một mặt là sự phản ánh bước tiến của con người về tự do, bình đẳng và sự giải phóng toàn diện năng lực bản chất người của mỗi cá nhân, mặt khác phản ánh sự phát triển của luật pháp, trình độ kinh tế, văn hoá và tiến bộ xã hội của quốc gia đó. Do đó, có thể nói: quyền dân chủ chính là quyền và tự do cơ bản của con người trong một chế độ xã hội dân chủ hay là yêu sách, nhu cầu chính đáng của con người về sự bình đẳng chính trị và bình đẳng xã hội với tính cách là môi trường và điều kiện cho sự tồn tại, phát triển và hoàn thiện nhân cách ư văn hoá và nhân tính ư tự do của mỗi cá nhân. 
II.       Thực hiện dân chủ và quyền dân chủ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới 
1.   Một số thành tựu đạt được
        Kể từ khi công cuộc đổi mới toàn diện bắt đầu cho đến nay, Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trên mọi phương diện. Trong đó, quá trình dân chủ hoá, tôn trọng và bảo đảm quyền dân chủ ngày càng được mở rộng và phát triển không ngừng, nhất là trong vòng hơn 10 năm trở lại đây. Dân chủ đại diện đã được thực hiện và bảo đảm ngày càng có hiệu quả. Ví dụ từ các kỳ họp Quốc hội. Việc giải quyết công việc theo đúng hẹn, và đặc biệt là niêm yết công khai về các khoản thu chi, lệ phí, ngân sách... đều được thực hiện trong một quy trình thống nhất một đầu mối đó là “một cửa”, tức là cầu nối giữa người dân và chính quyền/các cấp chính quyền, mỗi khi người dân muốn phản ánh về vấn đề gì thì chỉ cần gặp, trình bày với bộ phận tiếp dân, cũng như nhận kết quả trả lời chỉ cần thông qua một bộ phận duy nhất, “cầu nối” duy   nhất.   Điều  này thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào  việc  giữ  vững ổn định chính trị, phát triển kinh  tế ư  xã hội  và bảo Văn hoá pháp luật,văn hoá chính trị và văn hoá nói chung của người cầm quyền và toàn xã hội còn hạn chế, chưa “cắm rễ” “ăn sâu” vào trong suy nghĩ, hành động của họ không những khắc phục được tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân mà còn bảo đảm được việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân. Chẳng hạn, mô hình cơ chế “một cửa” trong quản lý nhà nước tại một số địa phương trong cả nước đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Mô hình này cho phép mọi công dân đều có cơ hội thực hiện quyền dân chủ của mình. Mô hình quản lý hành chính của cấp chính quyền địa phương được xây dựng thí điểm này được dựa trên nguyên tắc căn bản và nền tảng đó chính là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”: toàn bộ bộ máy chính quyền ở địa phương đó đã hoạt động hiệu quả, đáp ứng và giải quyết tương đối thoả đáng nguyện vọng và những vấn đề của người dân. Chẳng hạn, giải quyết những vấn đề từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp, công việc riêng của từng người dân hay công việc chung của cộng đồng, khiếu nại, tố cáo của công dân, hồ sơ đất đai, giải quyết công văn đi, đến đúng thời gian,
      Quyền dân chủ của nhân dân thể hiện không chỉ thông qua việc thực hiện tốt quyền bầu cử, ứng cử mà còn là sự tôn trọng và thực hiện tốt quyền bãi miễn của nhân dân. Nhất là trong tình hình hiện nay, tham nhũng, thoái hoá biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị, hệ thống hành chính nhà nước đang được xem là “quốc nạn”. Quyền bãi miễn là một quyền của cử tri, của công dân nhằm kiểm tra và giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, là “thực hiện sự phục tùng thực sự của những người được bầu đối với nhân dân”, là nguyên tắc nhằm thực hiện triệt để chế độ dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Lênin nhấn mạnh “mọi cơ quan được bầu ra... đều có thể coi là có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân dân, khi nào quyền bãi miễn của cử tri đối với những người trúng cử được thừa nhận và được áp dụng... từ chối không áp dụng bãi miễn, trì hoãn thi hành quyền đó, hạn chế nó, thì như thế tức là phản lại dân chủ và hoàn toàn từ bỏ nguyên tắc chủ yếu và nhiệm vụ của cuộc cách mạng XHCN đã bắt đầu ở nước Nga”3 và rằng “không có kiểm kê, kiểm soát thì không có chủ nghĩa xã hội”. Chính vì vậy, trong những năm qua, việc triển khai mạnh mẽ Quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” kết hợp với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào quá trình giám sát thực thi quyền lực nhà nước của toàn bộ hệ thống chính trị, hệ thống hành chính nhà nước. Nhờ có cơ chế dân chủ như vậy mà nhân dân đã tích cực tham gia vào cuộc chiến chống tệ tham nhũng, quan liêu và thoái hoá, biến chất trong đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước ở tất cả các cấp. 
2. Một số vấn đề còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu, cũng còn nhiều hạn chế và bất cập trong việc thực hiện dân chủ và quyền dân chủ, đã và đang làm cản trở tiến trình phát triển bền vững của đất nước, tiến bộ xã hội và việc tôn trọng, hiện thực hoá đầy đủ các quyền con người.
a)   Dân chủ và quyền dân chủ có nơi, có lúc còn bị vi phạm nghiêm trọng và đáng báo động, đặc biệt ở cấp cơ sở. Nhiều vấn đề “quốc nạn” xảy ra và bùng phát từ cơ sở như nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu, nhũng nhiễu, ức hiếp nhân dân diễn ra tràn lan, kéo dài và gây hậu quả đáng lo ngại. Hơn nữa, thước đo dân chủ và quyền dân chủ ư theo đúng ý nghĩa đích thực của nó, không phải cái gì khác hơn là mức độ dân chủ hoá và quyền dân chủ của nhân dân ở cấp cơ sở và ngay từ cấp cơ sở được tôn trọng và bảo đảm, nơi đóng vai trò quan trọng nhất của hệ thống chính trị, hệ thống hành chính nhà nước trong việc thực hành dân chủ và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Đúng như Thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định: “Đội ngũ cán bộ ở cơ sở trong một thời gian dài không được quan tâm xây dựng, củng cố đúng với tầm quan trọng của nó trong việc đưa luật pháp, chính sách đi vào cuộc sống, phát huy quyền làm chủ và năng lực tự quản của dân”4.
b)   Sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung của nước ta còn hạn chế và chưa tạo ra tiền đề vật chất đầy đủ cho việc thực hành dân chủ và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Dân chủ và quyền dân chủ không chỉ phản ánh bằng việc tham gia hiệu quả và thực sự vào đời sống chính trị, vào công việc của Nhà nước, mà còn là sự thể hiện trong hoạt động kinh doanh, trong đời sống kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế cho đến nay, quyền dân chủ trong kinh doanh của các thành phần và chủ thể kinh tế vẫn chưa được bảo đảm đầy đủ vì vẫn chưa có luật cạnh tranh và khung pháp lý cần thiết để thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Chính phủ còn thiếu biện pháp cụ thể thực hiện chủ trương hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bất bình đẳng trong kinh doanh, không để cho độc quyền nhà nước trong một số lĩnh vực trọng yếu biến thành độc quyền doanh nghiệp; chưa ngăn chặn được tình trạng giá một số sản phẩm và dịch vụ độc quyền quá cao, làm tăng chi phí và ảnh hưởng xấu đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khác và toàn bộ nền kinh tế, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư5.
c)   Trình độ nhận thức về dân chủ cũng như việc tôn trọng và thực thi quyền dân chủ của một bộ phận cán bộ lãnh đạo và chủ chốt còn nhiều hạn chế và chưa đầy đủ. Đồng thời, văn hoá pháp luật, văn hoá chính trị và văn hoá nói chung của người cầm quyền và toàn xã hội còn hạn chế, chưa “cắm rễ” và “ăn sâu” vào trong suy nghĩ, hành động của họ. Điều này làm cản trở không nhỏ cho việc tôn trọng và bảo đảm hiệu quả dân chủ và quyền dân chủ của nhân dân. Việc thực hiện dân chủ và quyền dân chủ ở nước ta vẫn còn những hạn chế và chưa hiệu quả cả về thiết chế cũng như tổ chức thực hiện. Chẳng hạn, chỉ Quy chế và các Nghị định của Chính phủ về việc xây dựng, triển khai và thực hiện dân chủ ở cơ sở là chưa đầy đủ và chưa mang tính pháp lý cao. Vì vậy, m ột mặt, cần phải thể chế hoá những nguyên tắc căn bản này vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, mặt khác cần sớm xây dựng và thông qua Luật trưng cầu ý dân.
d)   Không chỉ có việc thực hiện dân chủ trực tiếp còn nhiều hạn chế mà ngay cả dân chủ đại diện cũng còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Chẳng hạn, nhiều yêu cầu chính đáng của nhân dân do đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền chưa được giải quyết; tình trạng để vụ việc tồn đọng vẫn còn kéo dài; các Đoàn đại biểu Quốc hội vẫn chỉ mới tổ chức tiếp dân và chuyển đơn thư là chính, chưa đủ điều kiện thực hiện đầy đủ quyền giám sát việc giải quyết đơn thư; các cơ quan của Quốc hội vẫn còn gặp khó khăn và chưa đạt hiệu quả cao về hoạt động giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và đơn thư khiếu tố trong khi kiến nghị và đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội ngày càng tăng và ngày càng gay gắt6. Trong việc bầu cử đại biểu Quốc hội, có nơi, có lúc chưa chú trọng đúng mức đến tiêu chuẩn đại biểu, do đó, còn có đại biểu với năng lực hạn chế, chưa bảo đảm đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn người đại biểu, phát huy vai trò của người đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và đại diện cho nhân dân cả nước, ít đóng góp ý kiến vào việc xem xét, thông qua các dự án luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và những nội dung khác được Quốc hội bàn bạc, xem xét. Cá biệt, một số ít đại biểu không giữ trọn đạo đức, phẩm chất, bị Quốc hội bãi nhiệm, gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của người đại biểu nhân dân. Còn thiếu quá nhiều đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và ở cả các Đoàn đại biểu Quốc hội. Các đại biểu hoạt động theo chế độ chuyên trách cũng gặp nhiều khó khăn, nhiều đại biểu chưa dành được ít nhất 1/3 thời gian cho hoạt động của Quốc hội như luật định. 
3.   Phương hướng
a) Tăng cường và mở rộng quyền dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, chẳng hạn cần phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp; giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xoá bỏ hoàn toàn bao cấp; doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
b)   Dân chủ với tính cách thuộc hình thái thượng tầng kiến trúc, hiển nhiên do cơ sở hạ tầng quyết định, mà trước hết phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ư vào sự phát triển kinh tế của xã hội. Vì vậy, cần phải thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường để tạo tiền đề vật chất cho việc thiết lập cơ chế dân chủ và bảo đảm rộng rãi quyền dân chủ cho tất cả mọi người. Trong chiến lược phát triển kinh tế, cần nêu cao nguyên tắc dân chủ hoá về kinh tế: coi các thành phần kinh tế đều là bình đẳng, cho phép tự do kinh doanh và sản xuất, tự do cạnh tranh trong khuôn khổ của pháp luật, đẩy mạnh cơ chế dân chủ ở cơ sở, dân chủ trong các doanh nghiệp, không được phép thiên vị hay tạo cơ chế độc quyền, bất bình đẳng trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước...
c) Tăng cường và mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp, đặc biệt và trước hết là ở cơ sởư đầu mối xung yếu và thước đo quan trọng nhất để đánh giá mức độ dân chủ hoá và quyền dân chủ của nhân dân. Kết hợp thật tốt và nâng cao chất lượng hoạt động của dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Các hình thức dân chủ đại diện là kết quả của quá trình hoàn thiện quy chế dân chủ, nhưng nó không loại trừ việc thực hiện dân chủ trực tiếp. Làm tốt dân chủ trực tiếp sẽ làm cho dân chủ đại diện được thực hiện tốt hơn và ngược lại. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở càng phải coi trọng và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Các
đoàn thể nhân dân phải chủ động, gương mẫu trong việc vận động nhân dân thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước.
d) Dân chủ với tính là giá trị xã hội, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ giải phóng của con người về mặt nhận thức, về tri thức, về nhân cáchưtức là về mức độ xã hội hoá nhân cách “chủ thểư tự do” của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Chính vì vậy, cần nâng cao trình độ nhận thức và xây dựng văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật và văn hoá về quyền con người cho những người thực thi quyền lực nhà nước (đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chủ chốt trong hệ thống chính trị) và các tầng lớp nhân dân nhằm tạo tiền đề tốt hơn cho việc thực hành và bảo đảm dân chủ và quyền dân chủ.
e) Tiếp tục tăng cường và phát huy quy chế dân chủ ở cơ sở một cách rộng khắp ở tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị hành chính, các viện nghiên cứu, trường đại học... bằng việc tuyên truyền và giáo dục thường xuyên và mạnh mẽ về Quy chế và những thiết chế dân chủ này cho cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ chủ chốt ở cơ sở và cán bộ chuyên trách của chính quyền các cấpưlà “cầu nối” giữa nhân dân và chính quyền. Cần tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng, triển khai và thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp, dân chủ ở cơ quan (trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính sự nghiệp...) và dân chủ ở xã.
f)Củng cố và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Đẩy mạnh tăng cường  cải cách hành chính toàn diện trên phạm vi cả nước, nhất là ở cấp cơ sở. Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách hành chính, với nhiệm vụ phát triển kinh tếư văn hoáưxã hội, bảo đảm an ninh, ổn định chính trịưxã hội. Củng cố, kiện toàn tổ chức hoạt động của cộng đồng dân cư thôn bản, khu phố, đơn vị cơ sở,... nơi trực tiếp triển khai thực hiện, kiện toàn tổ chức hoạt động của cộng đồng dân cư thôn bản, khu phố, nơi trực tiếp triển khai thực hiện quy chế dân chủ, hương ước, quy ước của các tầng lớp nhân dân.
g)   Tăng cường vai trò và mở rộng phạm vi hoạt động của các tổ chức xã hội, các tổ chức phi Nhà nước (hội thanh niên, hội phụ nữ, hội người già, hội người tàn tật, công đoàn,...), các thiết chế cộng đồng làng xã, khu phố, cơ quan, xí nghiệp, công ty,... được xây dựng và hoạt động theo hình thức tự quản. Tăng cường giáo dục về pháp luật, về quy chế dân chủ ở cơ sở... Đào tạo cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn và biết tiếng địa phương (dân tộc) giúp cho việc lắng nghe và giải quyết những tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc mà người dân phản ánh.
h) Xây dựng và thông qua Luật trưng cầu ý dân. Đây có thể nói là một trong những hình thức hữu hiệu nhất để thực thi dân chủ trực tiếp và quyền dân chủ của công dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã khẳng định “Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng Luật trưng cầu ý dân”8. Chỉ có như vậy, tất cả mọi dự luật và các văn bản pháp luật khác cũng như các chủ trương, chính sách của Nhà nước trước khi được xây dựng, thông qua, đi vào hiệu lực và triển khai trên thực tiễn được đưa ra lấy ý kiến, bàn bạc công khai và rộng rãi với người dân và mới có hiệu quả và thực sự phản ánh ý chí của nhân dân, thuộc về nhân dân./.
 

(Nguồn tin: Bài đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 1 tháng 1/2003)


Ý kiến bạn đọc