Thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp

01/12/2002

ThS. Lê Thị Hoài Thu* * Giảng viên Khoa luật

ĐHQGHN

Thất nghiệp là hiện tợng tất yếu, khách quan trong nền kinh tế thị trờng, nhng nếu tỷ lệ thất nghiệp vợt quá giới hạn cho phép thì nó sẽ trở thành vấn đề xã hội gay cấn, để lại hậu quả trên các mặt kinh tế, xã hội, tâm lý. Chính vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp ra đời nh một yếu tố đóng vai trò thăng bằng trong nền kinh tế, đối với ngời lao động, ngời sử dụng lao động, đối với Nhà nớv và xã hội. Thế nhng ở nớc ta mới chỉ có chế độ trợ cấp mất việc hoặc thôi việc, và các chế độ này đang bộc lộ một số nhợc điểm. Thực trạng đó đòi hỏi cần sớm có một chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam mà không nên tìm các giải pháp tình thế. 
 
1.        Khái quát chung về thất nghiệp 
Một vài quan điểm lý luận  
Thất nghiệp đợc coi là hiện tợng tất yếu của nền kinh tế thị trờng. Tuy nhiên, do ảnh hởng của ý thức hệ và nhận thức xã hội nên vấn đề thất nghiệp, đặc biệt là nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp đợc các nhà kinh tế học lý giải rất khác nhau. Ngời đầu tiên nghiên cứu về thất nghiệp là Uyliam Petty1. Do ảnh hởng của chủ nghĩa trọng thơng nên Uyliam Petty cho rằng, để giảm bớt tình trạng thất nghiệp thì phải đẩy mạnh xuất khẩu ra bên ngoài để thu hút lực lợng lao động thừa trong xã hội (đây cũng là một nguyên nhân để các nớc t bản mở rộng thuộc địa). Tuy nhiên, Adam Smith mới là ngời nghiên cứu một cách có hệ thống về việc làm và thất nghiệp, ông đã phân tích các nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Cùng với Ricardo, Adam Smith khẳng định rằng, nạn nhân khẩu thừa (tức thất nghiệp) là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế thị trờng. Adam Smith cho rằng, việc sử dụng máy móc đã gạt bớt công nhân ra khỏi quá trình sản xuất. Đồng thời, sự biến động của sản xuất làm cho công việc của ngời lao động trở nên bấp bênh, dễ bị thất nghiệp. Ngoài ra, do sự tích tụ t bản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa t bản nên những ngời sản xuất nhỏ dễ bị phá sản làm tăng đội quân thất nghiệp. Adam Smith còn cho rằng, sự can thiệp quá mức của Nhà nớc làm cản trở việc di chuyển của ngời lao động giữa các ngành trong thị trờng lao động, làm ảnh hởng đến việc giải quyết việc làm, tăng thêm tình trạng thất nghiệp. Sau Adam Smith và Ricardo, nhà kinh tế học Keynes trong "Lý thuyết về việc làm, lãi suất và tiền tệ" đã nghiên cứu rất sâu về thất nghiệp trên cơ sở phân tích cung - cầu về lao động trong thị trờng và các mối quan hệ kinh tế xã hội khác. Keynes thừa nhận vấn đề thất nghiệp không phải là những hiện tợng độc lập của đời sống kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc đạt đợc cân bằng của hệ thống kinh tế. Theo ông, nạn thất nghiệp sẽ tồn tại dới dạng "bắt buộc", là một trạng thái mà trong đó "tổng cung về lao động của những ngời lao động muốn làm việc thì tại mức tiền lơng danh nghĩa đó nếu lớn hơn khối lợng làm việc hiện có". Ông cho rằng, để giảm thất nghiệp thì cần phải tạo nhiều chỗ làm việc trên cơ sở tăng đầu t cho sản xuất. Lý thuyết của Keynes mặc dù còn những phiến diện và hạn chế của lịch sử nhng những luận điểm mà ông nêu ra vẫn còn có ý nghĩa đến ngày nay. 
Khi nền kinh tế thị trờng phát triển ở mức cao, các lý thuyết về việc làm và thất nghiệp của Keynes và các nhà kinh tế học trớc đó đã tỏ ra bất lực trớc tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng mà các biện pháp nêu trong lý thuyết của họ đã không khắc phục đợc. Nhiều nhà kinh tế học đã đa ra những lý thuyết mới về thất nghiệp, phân tích các nguyên nhân và các tác động kinh tế, tác động xã hội của thất nghiệp. Một trong số các nhà kinh tế đa ra lý thuyết mới về thất nghiệp đó là Samuelson2. Ông đã phân tích cung-cầu về lao động để thấy rõ bản chất của thất nghiệp: "Thất nghiệp là một vấn đề trung tâm trong các xã hội hiện đại". Khi mức thất nghiệp cao, tài nguyên bị lãng phí và thu nhập của dân giảm. Trong những thời kỳ nh vậy, nền kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn và ảnh hởng đến tình cảm và cuộc sống của gia đình trong nhân dân. Một thiệt hại nghiêm trọng nữa do thất nghiệp đa lại
đó là sự mất đi về số lợng là những khoản lãng phí to lớn nhất trong nền kinh tế hiện đại.
 
Dới giác độ của thị trờng lao động, theo tính chất đầy đủ của việc làm, ngời ta chia ra ngời có đủ việc làm, ngời thiếu việc làm và ngời thất nghiệp. Những khái niệm này đợc định nghĩa khác nhau ở từng nớc. Riêng khái niệm thất nghiệp hiện nay cũng rất khác nhau. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số ngời trong lực lợng lao động muốn làm việc, nhng không thể tìm đợc việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành.
 
 
Phân loại thất nghiệp 
Không phải ở tất cả các quốc gia, thất nghiệp đều xuất hiện dới một dạng thống nhất, mà ngợc lại nó đợc thể hiện dới các loại hình thức khác nhau. Nên việc tiến hành phân loại chúng là một việc làm hết sức cần thiết, nó vừa mang tính lý luận và thực tiễn. Qua việc phân loại sẽ giúp chúng ta hiểu thêm đợc bản chất của vấn đề, từ đó có những chính sách thích hợp.
 
Thất nghiệp đợc phân loại dựa trên một số căn cứ sau:
 
- Căn cứ vào ý chí của ngời lao động thì thất nghiệp đợc chia làm 2 loại: thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện.
 
+ Thất nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp tạm thời do ngời lao động chỉ đi làm việc với mức lơng cao, hay nói cách khác, những ngời thất nghiệp tự nguyện là những ngời không chấp nhận một mức lơng hiện hành trên thị trờng, nên không nhận việc mà trở nên thất nghiệp.
 
+ Thất nghiệp không tự nguyện là những ngời mong muốn làm việc với mức lơng hiện hành vào thời điểm đó, nhng vẫn không tìm đợc việc làm.
 
Phân loại thất nghiệp dựa trên căn cứ ý chí của ngời lao động giúp chúng ta phân định một cách rạch ròi các đối tợng đợc hởng trợ cấp thất nghiệp, từ đó bảo đảm cho quá trình quản lý và chi trả trợ cấp cho đối tợng này diễn ra nhanh chóng và chính xác, đáp ứng đợc yêu cầu của ngời lao động.
 
- Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, ngời ta chia thất nghiệp thành 3 loại: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp tiềm tàng, thất nghiệp dai dẳng.
 
+ Thất nghiệp tạm thời: là loại thất nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, do thay đổi nghề nghiệp, thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi ở, hoặc trong thời gian mới tốt nghiệp ra trờng cha xin đ- ợc việc. Thất nghiệp tạm thời xảy ra ngay cả khi nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Phần lớn những ngời thất nghiệp tạm thời là những ngời thất nghiệp tự nguyện.
 
+ Thất nghiệp tiềm tàng: là tình trạng ngời lao động ở nông thôn không có việc làm trong một thời gian, vì không đúng mùa nông nghiệp. Loại thất nghiệp tiềm tàng này đang ngày càng phát triển, nhất là ở các nớc cha phát triển hoặc đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
 
+ Thất nghiệp dai dẳng: là tình trạng thất nghiệp thờng xuyên đối với những ngời lao động có khả năng lao động nhng do bị tàn tật, bị mắc các bệnh tệ nạn xã hội (ma tuý, mại dâm...), những ngời mãn hạn tù về nên khó kiếm việc làm. Loại thất nghiệp này còn xảy ra đối với những ngời lao động làm một số loại hình công việc có số "cầu" không ổn định.
 
Phân loại dựa vào thời gian thất nghiệp tạo điều kiện để Nhà nớc xây dựng đợc các kế hoạch sắp xếp, bố trí thêm công việc cho ngời lao động, dần dần đảm bảo hạn chế thời gian để trống của họ.Đây là một việc làm hết sức cần thiết, vì có nh vậy, chúng ta mới tránh đợc những tiêu cực trong xã hội do thất nghiệp là nguyên nhân chính gây ra "nhàn c vi bất thiện".

 Căn cứ vào nguyên nhân thất nghiệp có 2 loại: thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp chu kỳ

 
+ Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối giữa "cung" "cầu" về lao động ở một số ngành hay một số vùng kinh tế.
 
+ Thất nghiệp chu kỳ: xảy ra khi tổng mức cầu về lao động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thấp hơn tổng mức cung về lao động, tức là tơng ứng với thời kỳ suy thoái trong chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế thị trờng. Với cách phân loại này, Nhà nớc có thể đa ra đợc những chính sách u tiên, u đãi đối với một số ngành nghề đang cần thu hút lao động, hoặc nâng cao một số yêu cầu đối với ngời lao động làm việc trong một số ngành nghề đã quá d thừa về nhân công, từ đó lấy lại thế cân bằng giữa các ngành nghề và tránh sự suy thoái của nền kinh tế. Nếu Nhà nớc thực hiện tốt nhiệm vụ này thì thất nghiệp chu kỳ và thất nghiệp cơ cấu sẽ đợc hạn chế đợc một bớc.
 
 
2.        Hậu quả của thất nghiệp đối với nền kinh tế
 
Hậu quả kinh tế của tình trạng thất nghiệp phụ thuộc vào những chi phí liên quan đến thất nghiệp, cả trên giác độ từng hộ gia đình cũng nh toàn xã hội.
 
Thất nghiệp dẫn đến "cú sốc" giảm sút thu nhập của hộ gia đình và mọi hậu quả tiêu cực đi kèm theo.ở Ba Lan, theo điều tra xã hội học năm 1991, 93% những gia đình có ngời thất nghiệp không đạt thu nhập ở mức nhu cầu tối thiểu của xã hội, 52% gia đình thuộc diện nghèo đói3. Rất tiếc, ở Việt Nam cha tiến hành điều tra về tình trạng thu nhập của những hộ gia đình có ngời bị thất nghiệp, nhng chắc chắn rằng họ đang phải "vật lộn" với cuộc sống để duy trì sự tồn tại của mình.
 
 
Trên khía cạnh kinh tế vĩ mô, có thể chia ra làm hai loại chi phí liên quan đến thất nghiệp:
 
 
-   Chí phí bằng tiền (chủ yếu là tiền từ ngân sách và các quỹ xã hội)
 
- Lãng phí sản phẩm xã hội do không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn có của sản xuất xã hội.
 
Những chi phí bằng tiền bao gồm tiền từ ngân sách Nhà nớc và các quỹ của doanh nghiệp cũng nh của xã hội chi cho bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc cùng các chi phí xã hội khác cho chơng trình chống thất nghiệp. ở Ba Lan, riêng tiền bảo hiểm thất nghiệp và tiền đóng bảo hiểm xã hội cho những ngời thất nghiệp năm 1990 khoảng gần 2 tỷ zl, năm 1991 đã là trên 10 nghìn tỷ zl. Dạy nghề và đào tạo lại cho ngời thất nghiệp từ 16 tỷ zl vào năm 1990 và đến 83 tỷ zl vào năm 1991. Tiếp đến là 10 tỷ zl cho những ngời thất nghiệp dới hình thức về hu sớm4. Xem xét chi phí cho thất nghiệp ở các nớc OECD, bao gồm tiền bảo hiểm và trợ cấp thất nghiệp cùng cho những chơng trình thị trờng lao động tích cực cho thấy: đó là những khoản chi rất lớn, chẳng hạn: ở Thuỵ Điển chi trung bình cho một ngời thất nghiệp một năm là 35.570 USD; ở Đan Mạch: 26.693 USD; Đức: 23.063 USD; Pháp: 12.153 USD; ở Thuỵ Sỹ: 18.371 USD; ở Phần Lan: 10.884 USD; áo, Bỉ, Hà Lan và Na Uy từ 8.500-9.500 USD (số liệu năm 1993)5. ở các nớc này, ngân sách dành cho chơng trình thị trờng lao động thờng chiếm từ 2-6% GDP. ở nớc ta, mặc dù cha có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, chỉ riêng việc thực hiện trả trợ cấp mất việc làm và chi phí cho đào tạo lại theo Điều 17 Bộ luật Lao động đối với khoảng 10% lao động trong doanh nghiệp nhà nớc nghỉ việc nhng cha đợc hởng chế độ (theo quy định của pháp luật) đã lên đến gần 1000 tỷ đồng (theo tính toán của Vụ chính sách Lao động-Việc làm năm 1998). Chi phí bằng tiền liên quan đến thất nghiệp còn bao gồm việc giảm sút ngân sách quốc gia. Ngời thất nghiệp không có thu nhập, không đóng thuế, chỉ đóng ít hoặc không đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Chi phí của chính phủ cho tình trạng thất nghiệp lớn sẽ dẫn đến hậu quả gia tăng thâm hụt ngân sách.
Lãng phí nhất đối với xã hội là không sử dụng đầy đủ các yếu tố sẵn có của sản xuất. Lãng phí này đợc xác định theo định luật A.OKUN (mang tên nhà kinh tế ngời Anh), nó chỉ ra khoảng cách giữa GDP thực tế và GDP tiềm năng, tức GDP có đợc trong điều kiện đạt mục tiêu việc làm đầy đủ. Định luật này nói rằng: cứ 1% vợt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thì GDP bị giảm 2,5%. Vận dụng định luật này cho trờng hợp nớc ta, giả thiết tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 5%, thực hiện phép quy đổi đơn giản cả thất nghiệp hữu hình đô thị và thất nghiệp trá hình ở nông thôn (thiếu việc) và khu vực doanh nghiệp nhà nớc vào tỷ lệ chung chúng ta xác định tỷ lệ thất nghiệp chung cho cả nớc vào khoảng 20%. Nh vậy, chúng ta đã lãng phí khoảng (20/5) x 2,5% =37,5% GDP. Đây là nguyên nhân chính của nạn đói nghèo ở Việt Nam.  Hậu quả kinh tế của thất nghiệp còn phải kể đến những mất mát liên quan đến sự di c ra nớc ngoài của một bộ phận dân c, chủ yếu là thanh niên có trình độ học vấn, tay nghề cao nhng không tìm đợc việc làm ở trong nớc.
 
Tăng nhanh thất nghiệp trở thành một trong những vấn đề nhức nhối nhất của xhội. Thất nghiệp không chỉ đồng nghĩa với tình trạng vật chất ngày càng xấu đi mà còn kèm theo những hậu quả tâm lý - xã hội mà ngời thất nghiệp cũng nh xã hội phải gánh chịu.
 
Những kết quả điều tra xã hội học và nghiên cứu kinh nghiệm chỉ ra rằng, ngời mất việc làm sẽ trải qua giai đoạn diễn biến tâm lý nhất định. Giai đoạn đầu là sự lạc quan và tin tởng tìm đợc chỗ làm việc mới; giai đoạn này thờng ngắn. Giai đoạn tiếp theo là thời kỳ bi quan và mất dần hy vọng. Thời gian thất nghiệp kéo dài dẫn đến vô vọng và buông xuôi số phận, ngời thất nghiệp mặc cảm với chính mình, suy giảm tinh thần và khả năng tự tìm việc làm, phôi phai dần những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp đã có.
 
Mất việc làm sẽ dẫn đến không thể thoả mãn những nhu cầu cơ bản nh: nhu cầu hoạt động trong một tổ chức, tiếp xúc với môi trờng ngoài gia đình, có cơ hội tự đánh giá và so sánh với những thành viên khác của tổ chức, định hớng hoạt động và tổ chức cơ cấu thời gian trong ngày, trong tuần...
Ngoài ra, phải kể đến những vấn đề xã hội cơ bản đi kèm với thất nghiệp là: suy sụp thể lực và tinh thần, mâu thuẫn gia đình tăng, số ngời tự tử gia tăng cùng với việc gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Thất nghiệp tạo ra các điều kiện để phát triển các loại tội phạm khác nhau: trộm cớp, hãm hiếp, giết ngời... và các tệ nạn xã hội: nghiện hút, mại dâm cũng nh làm băng hoại giá trị đạo đức, văn hoá của gia đình cũng nh của dân tộc. Các điều tra xã hội và tội phạm ở hầu hết các nớc đều xác nhận: đối với thanh niên, rất dễ xảy ra tình trạng "tam giác đen" (thất nghiệp-nghiện hút-tội phạm).
Để thoát khỏi "tam giác đen" này là rất khó khăn.
 
 
3.        Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
 
Bảo hiểm thất nghiệp có vai trò không chỉ đối với cá nhân ngời lao động, doanh nghiệp mà còn đóng vai trò thăng bằng trong nền kinh tế
 
-   Đối với ngời lao động: Bảo hiểm thất nghiệp có hai chức năng chủ yếu: chức năng bảo vệ và chức năng khuyến khích. Trợ cấp thất nghiệp chính là khoản đợc sử dụng để giúp ngời lao động có đợc một cuộc sống tơng đối ổn định sau khi bị mất việc. Với chức năng khuyến khích, bảo hiểm thất nghiệp kích thích ngời thất nghiệp tích cực tìm việc làm và sẵn sàng làm việc. Do đó, bảo hiểm thất nghiệp vừa là công cụ góp phần giải quyết thất nghiệp, vừa là một chính sách xã hội rất quan trọng.
 
-       Đối với ngời sử dụng lao động: do có bảo hiểm thất nghiệp, nên khi thất nghiệp xảy ra; họ không phải tăng thêm chi phí để trả trợ cấp mất việc làm cho ngời lao động. Hơn nữa, khi ngời lao động biết rõ việc đợc trợ cấp thất nghiệp, họ sẽ yên tâm làm việc hơn. Điều này khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định phát triển sản xuất.

 

-       Đối với xhội: chế độ trợ cấp thất nghiệp là một chính sách xã hội. Nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ tạo ra sự ổn định về mặt xã hội và ngợc lại nó làm cho xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, mất ổn
định.
 
Thất nghiệp tác động rất lớn đến tinh thần, tâm lý. Để ngăn chặn và hạn chế những hành vi tiêu cực có thể xảy ra khi ngời lao động bị mất việc làm, thì có lẽ không có biện pháp nào phát huy tác dụng nh chính sách trợ cấp thất nghiệp. Rõ ràng với chính sách này ngời lao động cũng yên tâm phần nào về cuộc sống để dồn sức lo tìm kiếm một công việc mới, ổn định dần và tiến đến việc cải thiện đời sống của gia đình mình trong tơng lai.
 
-       Đối với Nhà nớc:bất kỳ một quốc gia nào, vào thời gian nào cũng tồn tại một đội quân thất nghiệp với mức độ và tỷ lệ khác nhau. Thờng trong giai đoạn hng thịnh của nền kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp thấp và trong giai đoạn khủng hoảng thì tỷ lệ này sẽ cao. Nếu có bảo hiểm thất nghiệp, gánh nặng ngân sách sẽ giảm hơn khi thất nghiệp xảy ra. Mặt khác, khi đã có trợ cấp thất nghiệp, Nhà nớc không còn phải lo đối phó với các cuộc biểu tình, không phải chi nhiều ngân sách để giải quyết các tệ nạn xã hội, tội phạm do nguyên nhân thất nghiệp gây ra.
 
Nh vậy, việc hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội là việc làm hết sức cần thiết vì quyền đợc bảo hiểm xhội là một trong những quyền cơ bản của con ngời. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948, có đoạn: "Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên của xã hội có quyền đợc hởng bảo hiểm xã hội. Quyền đó đợc đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con ngời...". Điều 25 có ghi: "Mỗi ngời có quyền có một mức sống cần thiết cho việc giữ gìn sức khoẻ cho bản thân và gia đình, có quyền đợc bảo đảm trong trờng hợp thất nghiệp".
Việc làm và giải quyết việc làm nhằm hạn chế thất nghiệp cũng là một phạm trù thuộc quyền con ngời: "Tự do thoát khỏi nỗi sợ hãi về đói nghèo đã đợc tuyên bố nh là khát vọng cao cả nhất của loài ngời"6. "Mọi ngời đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề, đợc có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng và đợc bảo vệ chống lại thất nghiệp"7.
Ông Rơ-nê Đuy-mông, một chuyên gia ngời Pháp trong cuốn "Một thế giới không thể chấp nhận đợc" đã nói: "Đối với tôi, dù mầu sắc chính trị thế nào, quyền đầu tiên của con ngời là quyền đợc sống, quyền đợc ăn, sinh ra từ quyền đợc làm việc; nếu con ngời bị khai trừ ra khỏi xã hội hiện đại, bị tớc quyền đợc làm việc là một hình thức ám sát trá hình". Nh vậy, quyền đợc bảo hiểm xã hội, quyền đợc làm việc là một trong những quyền cơ bản của con ngời. Nó không những đợc quy định ở trong pháp luật quốc gia mà còn đợc quy định trong pháp luật quốc tế. Sự ra đời của chế độ trợ cấp thất nghiệp đã biến quyền con ngời, quyền công dân trở thành hiện thực.
 
 
4.        Sự cần thiết cần phải có chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
 
Sức ép về việc làm đối với nớc ta còn rất lớn. Vẫn còn một tỷ lệ cao số lao động cha có việc làm hay nói cách khác họ bị thất nghiệp8. Trong khi cha có bảo hiểm thất nghiệp để bù đắp một phần thu nhập do bị mất việc làm, theo quy định của Bộ luật Lao động, khi ngời lao động chấm dứt hợp đồng lao động thì đợc trợ cấp mất việc, hoặc trợ cấp thôi việc, do doanh nghiệp chịu trách nhiệm thanh toán 100%. Những quy định này bộc lộ một số nhợc điểm sau:
 
-       Bộ luật Lao động có quy định về chế độ trợ cấp mất việc làm (Điều 17) và trợ cấp thôi việc (Điều
42)             nhng chế độ này cha đáp ứng đợc yêu cầu chung của nền kinh tế thị trờng, còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp, nên bất cập cho ngời sử dụng lao động, ngời lao động và Nhà nớc.
-       Tất cả các chế độ trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm cho đến nay đều cha phải là chế độ bảo hiểm thất nghiệp, vì nó trả một lần cho ngời thôi việc mà mức trả nhiều hay ít lại phụ thuộc vào số năm làm việc, mức tiền lơng, kinh phí chi trả trợ cấp này lại do doanh nghiệp trả, không mang tính chất xã hội, không thể hiện trách nhiệm của cả 3 bên. 
-       Khi có nhiều ngời thôi việc, mất việc làm là lúc doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nên việc chi phí một khoản lớn trợ cấp cho số đông ngời lao động thờng là gánh nặng quá sức của doanh nghiệp. Do vậy, hoặc là doanh nghiệp không sòng phẳng trả cho ngời lao động, hoặc là trả rất nhỏ giọt.
-       Khi ngời lao động mất việc làm, trớc mắt họ không có khoản thu nhập nào ngoài việc trông chờ vào khoản trợ cấp mất việc, thôi việc.
-       Đối với Nhà nớc: khi doanh nghiệp không đủ tiền để trả trợ cấp thôi việc thì ngân sách nhà nớc phải đứng ra gánh vác trách nhiệm này. Nhà nớc cũng sẽ khó khăn về ngân sách khi nền kinh tế
đình đốn, nhiều doanh nghiệp phải sa thải lao động, do vậy việc chi trả trợ cấp cho lao động mất việc trong doanh nghiệp nhà nớc cũng sẽ là một gánh nặng.
-       Do không có chế độ bảo hiểm thất nghiệp, nên không có hệ thống tổ chức để đăng ký, theo dõi ng- ời thất nghiệp một cách thờng xuyên, cập nhật từ dới lên, nên không nắm đợc số ngời thất nghiệp, số ngời cần có việc làm một cách cụ thể để giúp cho Nhà nớc có chủ trơng chính sách chủ động để giải quyết vấn đề lao động, việc làm và thất nghiệp.
Do vậy, cần sớm có một chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, không nên chỉ tìm các giải pháp tình thế. Để bảo hiểm thất nghiệp có tính khả thi cao, chúng ta phải lựa chọn hình thức và bớc đi thích hợp, làm từ đơn giản đến phức tạp, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần./.
 
 
 
 
 

 
1.                   Nhàkinh tế học ngời Mỹ. Xem: Mạc Tiến Anh- Thất nghiệp và giải pháp- Tạp chí Bảo hiểm xã hội (tháng 11/2000).
2.                   Nhà kinh tế học ngời Mỹ. Xem Thông tin lao động của PTS. Nguyễn Quang Hiển- NXB Thống kê. Hà Nội 1995.
3.                   Zofia Dach, Ekonomiczno-spoleczne skutki bezrobocia, Praca Zabezpieczenie spoleczne, Warsawa, 2/1993.
4.                   Tài liệu đã dẫn, Zofia Dach....
5.                   Xem: PTS. Nguyễn Bá Ngọc- Hậu quả kinh tế xã hội của thất nghiệp - Tạp chí Lao động và xã hội (tháng 7/1999).
6.                   Lời nói đầu Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948
7.                   Điều 3 Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948
8.                   Xem: " Thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp "Mạc Tiến Anh- Tạp chí Lao động và Xã hội tháng 2/2002.