Đa dạng sinh học và công tác quản lý khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam

01/10/2008

TS. NGUYỄN THẾ ĐỒNG

Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường

ThS. LÊ THANH BÌNH

Trưởng phòng bảo tồn thiên nhiên, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường

 
1. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học 
Theo Công ước đa dạng sinh học[1], đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các hệ sinh thái trên cạn, dưới nước, ở biển và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên; a dạng sinh học bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay còn gọi là đa dạng nguồn gen), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng các hệ sinh thái)
 ĐDSH có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của loài người; các lợi ích mà ĐDSH mang lại cho con người là vô cùng phong phú và tùy thuộc vào cấp độ tổ chức của ĐDSH - đa dạng di truyền, đa dạng loài hay đa dạng hệ sinh thái (Bảng 1).
Bảng 1. Giá trị của ĐDSH tùy thuộc vào cấp độ của sự ĐDSH
Cấp độ ĐDSH
Giá trị ĐDSH (Các lợi ích mà con người nhận được)
Đa dạng di truyền (đa dạng trong phạm vi quần thể loài)
Các sản phẩm của từng loài với chất lượng và sản lượng khác nhau (một phần của dịch vụ cung cấp)
Đa dạng loài
Các sản phẩm đa dạng của nhiều loài khác nhau với chất lượng và sản lượng khác nhau (phần lớn của dịch vụ cung cấp, chủ yếu là lương thực, gỗ, củi, dược liệu,…)
Đa dạng hệ sinh thái
Các dịch vụ hệ sinh thái (cung cấp, điều tiết, văn hóa, hỗ trợ). Toàn bộ cơ sở (tài nguyên, môi trường) cho sự tồn tại và phát triển của loài người
2. Sự phong phú và độc đáo của ĐDSH Việt Nam
Do đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu và sự đa dạng về cấu trúc địa hình, Việt Nam được đánh giá là một trong 25 nước có tính ĐDSH cao trên thế giới (Tré de Groombridge, 1992). Sự đa dạng này thể hiện ở sự phong phú về các hệ sinh thái, các loài động thực vật và nguồn gen.
Hệ sinh thái ở Việt Nam có thể phân thành ba dạng chính: hệ sinh thái trên cạn (đặc trưng là hệ sinh thái rừng, chiếm hơn 36% diện tích tự nhiên), hệ sinh thái đất ngập nước (với 30 dạng đất ngập nước tự nhiên ven biển và nội địa và 9 loại dạng ngập nước nhân tạo) và hệ sinh thái biển (với khoảng 20 kiểu hệ sinh thái biển điển hình).
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tính đa dạng loài cao, thành phần loài phong phú, có nhiều nét độc đáo và đặc trưng cho vùng Đông Nam á. ộng vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu: hơn 100 loài và phân loài chim, 78 loài và phân loài thú đặc hữu (Võ Quý, Nguyễn Cử, 1995), 16 loài thú linh trưởng. Nhiều loài động, thực vật mới đã được phát hiện ở Việt Nam trong khoảng 15 năm gần đây.
Việt Nam cũng được coi là một trong 12 trung tâm nguồn gốc giống cây trồng và cũng là trung tâm thuần hoá vật nuôi nổi tiếng của thế giới. Việt Nam hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp 16 nhóm các loài cây trồng khác nhau, với tổng số trên 800 loài cây trồng với hàng nghìn giống khác nhau. Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.207 giống của 115 loài cây trồng. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản địa với nhiều đặc tính quý mà duy nhất chỉ có ở Việt Nam.
ĐDSH có đóng góp lớn cho nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực của đất nước; duy trì nguồn gen tạo giống vật nuôi, cây trồng; cung cấp các vật liệu cho xây dựng và các nguồn nhiên liệu, dược liệu. Theo thống kê, ở Việt Nam có khoảng 25 triệu người sống trong hoặc gần rừng và khoảng 20% thu nhập của họ là từ lâm sản ngoài gỗ. Nghề thuỷ sản đem lại nguồn thu nhập chính cho khoảng 8 triệu người và một phần thu nhập cho khoảng 12 triệu người.
ĐDSH tạo nên các cảnh quan thiên nhiên và đó là nguồn cảm hứng vô tận của nghệ thuật, là cội nguồn của nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp của người dân Việt Nam, là cơ sở để phát triển ngành công nghiệp du lịch. Các ngành nghề truyền thống như nhuộm chàm, dệt thổ cẩm, làm hàng mỹ nghệ từ gỗ, tre nứa hay song mây là biểu hiện sự gắn bó của đời sống văn hóa con ng­ười Việt Nam với ĐDSH.
3. Bảo tồn ĐDSH thông qua việc thiết lập hệ thống khu bảo tồn
      Ngày 17 tháng 11 năm 1994, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước ĐDSH. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) được giao nhiệm vụ làm cơ quan đầu mối giúp Chính phủ tổ chức thực hiện Công ước. Theo tinh thần của Công ước, Việt Nam cũng như tất cả các nước khác phải hành động để bảo vệ ĐDSH.
      Một năm sau khi gia nhập Công ước ĐDSH, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam (ngày 22 tháng 12 năm 1995). Sau khi ban hành Kế hoạch hành động, nhiều chương trình, dự án đã được triển khai và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Hệ thống văn bản, chính sách có liên quan tới bảo tồn ĐDSH đã được ban hành; nhận thức về tầm quan trọng của ĐDSH của các ngành, các cấp được nâng cao. Đã bước đầu lồng ghép các cân nhắc về bảo tồn ĐDSH trong quy hoạch phát triển, thông qua hệ thống đánh giá tác động môi trường (trong đó có tác động tới ĐDSH )…Năm 2007, để đảm bảo phát triển bền vững trong giai đoạn mới, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động Quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (KHHĐ-2007), thực hiện Công ước ĐDSH. Xây dựng và phát triển các khu bảo tồn đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm và là một trong những nội dung quan trọng của kế hoạch hành động bảo tồn ĐDSH của Việt Nam.
            Bảo tồn tại các khu bảo tồn là một trong những biện pháp bảo tồn ĐDSH phổ biến và hiệu quả (bảo tồn tại chỗ- in situ), đã được Công ước ĐDSH khuyến nghị thực hiện. Ngoài các giá trị về ĐDSH, các khu bảo tồn còn giúp điều hòa khí hậu, cân bằng nước; cung cấp những dịch vụ môi trường và các sản phẩm thiết yếu cho sự tăng trưởng của các ngành thuỷ điện, thuỷ sản, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp cũng như phát triển đô thị và gìn giữ những giá trị không thể thay thế cho các hoạt động giáo dục về di sản thiên nhiên, lịch sử, nghỉ ngơi và giải trí, đảm bảo chất lượng cuộc sống cho thế hệ hôm nay và mai sau.
3.1  Hệ thống các khu bảo tồn của Việt Nam
ở Việt Nam có ba loại hình khu bảo tồn thiên nhiên chủ yếu: khu bảo tồn thiên nhiên trên cạn (khu bảo tồn rừng đặc dụng), khu bảo tồn biển và khu bảo tồn đất ngập nước.
Hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) trên cạn: Theo thống kê của Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp đến tháng 12 năm 2005, các hệ sinh thái rừng quan trọng trong các vùng sinh thái đã được tiến hành thực hiện bảo tồn. Hầu hết các loài động thực vật đặc hữu, quý hiếm và sinh cảnh của chúng có mặt tại các khu rừng đặc dụng này và là đối tượng ưu tiên của công tác bảo tồn. Các khu RĐD còn có tính dự trữ nguồn tài nguyên ĐDSH, nguồn gen phục vụ lâu dài và ổn định cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bảng 2. Hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam
(Tính đến tháng 12 năm 2005)
TT
Loại
Số lượng
Diện tích (ha)
I
Vườn quốc gia
28
957.330
II
Khu Bảo tồn thiên nhiên
59
1.369.058
III
Khu Bảo vệ cảnh quan
39
215.287
 
Tổng cộng
126
2.541.675
Nguồn : Cục Kiểm Lâm, 2005.
Theo số liệu mới rà soát của Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, tổng số hiện có 164 khu rừng đặc dụng, trong đó có 30 vườn quốc gia, 69 khu bảo tồn thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm, khoa học.
- Hệ thống các khu bảo tồn đất ngập nước: Theo thống kê, Việt Nam có trên 10 triệu ha đất ngập nước. Năm 2001, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã đề xuất 68 vùng đất ngập nước có giá trị ĐDSH và môi trường của Việt Nam, bao gồm các hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo, các đầm, phá, cửa sông, các sân chim, các khu rừng ngập nước, các trảng cỏ ngập nước theo mùa. Trong đó, có 17 khu thuộc hệ thống các khu rừng đặc dụng đã được Thủ tướng Chính phủ xác lập. Bước đầu, một số mô hình về quản lý đất ngập nước (như khu Ramsar Xuân Thủy - Nam Định, khu Bàu Sấu - Đồng Nai) đã được tiến hành thí điểm.
- Hệ thống các khu bảo tồn biển: Chính phủ đang xem xét thông qua quy hoạch tổng thể hệ thống các khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2010. Bản quy hoạch đề xuất 15 khu bảo tồn biển với mục tiêu khoảng 2% diện tích vùng biển Việt Nam sẽ được bảo tồn vào năm 2010. Hệ thống các khu bảo tồn này được phân làm 3 loại theo tiêu chí của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), bao gồm: Vườn quốc gia (biển), Khu bảo tồn loài và nơi cư trú và Khu dự trữ tài nguyên thuỷ sinh vật. Hiện có 02 khu bảo tồn biển đang trong giai đoạn thử nghiệm là khu bảo tồn biển Hòn Mun và Cù Lao Chàm.
3..2 Quản lý nhà nước đối với hệ thống khu bảo tồn
      Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối quốc gia đối với Công ước ĐDSH, chịu trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH, điều phối các hoạt động liên quan tới Công ước ĐDSH ở Việt Nam. Hiện Bộ Tài nguyên và Môi trường đang được Chính phủ giao nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các khu bảo tồn đất ngập nước.
      Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được giao nhiệm vụ quản lý các hoạt động liên quan đến các khu BTTN thuộc hệ thống rừng đặc dụng và các khu bảo tồn biển.
      Uỷ ban Nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên ĐDSH và khu bảo tồn theo phân cấp tại địa phương mình.
3.2.1 Thành tựu trong quản lý hệ thống các khu bảo tồn
            Có thể khẳng định trong những năm qua, hệ thống các khu bảo tồn đã được hình thành, phát triển và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Những thành tựu trong lĩnh vực này có thể tóm tắt ở một số điểm cơ bản sau:
- Hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam được mở rộng rất nhanh trong 30 năm qua. Việt Nam đã hình thành hệ thống rừng đặc dụng gồm 128 khu, trong đó có 30 vườn quốc gia, 60 khu bảo tồn thiên nhiên và 38 Khu văn hoá - lịch sử - môi trường, với diện tích khoảng 2,4 triệu ha (7% diện tích cả nước), đại diện cho hầu hết các hệ sinh thái rừng của cả nước.
- Đã xây dựng được hành lang pháp lý cho bảo vệ rừng đặc dụng: Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Quy chế quản lý rừng (Ban hành kèm theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006)…;
- Hệ thống rừng đặc dụng đặc biệt được chú trọng phát triển. Hệ thống các khu bảo tồn phân bố đều trong cả nước, bao gồm 128 khu rừng đặc dụng đã được phê duyệt và 15 khu bảo tồn biển, 68 khu đất ngập nước có giá trị môi trường và ĐDSH đang được đề xuất.
- Đã xây dựng được lực lượng quản lý và bảo vệ rừng như các ban quản lý rừng đặc dụng, lực lượng kiểm lâm… và thực hiện nhiều chương trình, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhận thức, nghiệp vụ cho họ để có thể thực hiện công việc hiệu quả.
- Nhận thức về vai trò của rừng đặc dụng đối với bảo tồn ĐDSH, môi trường trong xã hội được tăng cường đáng kể;
- Một số vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên trọng điểm được chú ý đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính và nhân lực; đầu tư cho khu bảo tồn đã bước đầu được chú trọng.
- Xã hội hoá bảo tồn ĐDSH ngày càng được coi trọng. Việc bảo tồn ĐDSH được xem là nhiệm vụ của toàn dân, đặc biệt cộng đồng dân cư lân cận các khu bảo tồn thiên nhiên. Việc giáo dục nhận thức cũng như tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao cuộc sống của cộng đồng dân cư vùng đệm là yếu tố then chốt để bảo đảm thành công bảo tồn các khu rừng đặc dụng và ĐDSH.
- Các chương trình nghiên cứu khoa học đã được chú ý và thực hiện trên phạm vi rộng hơn, đã bước đầu chú ý tới công tác nghiên cứu ĐDSH tại các khu bảo tồn.
3.2.2 Một số hạn chế trong quản lý các khu bảo tồn
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý các khu bảo tồn cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Việc nhìn nhận và đánh giá đúng đắn những hạn chế này sẽ giúp cho quá trình đổi mới nhằm tăng hiệu quả quản lý hệ thống các khu bảo tồn. Đó là:
            - Chưa hình thành một hệ thống các khu bảo tồn đại diện cho các HST:Hiện tại, các khu bảo tồn chủ yếu là rừng đặc dụng.  Hiện mới có 02 khu bảo tồn biển thí điểm do UBND tỉnh Khánh Hòa thành lập tại Vịnh Nha Trang năm 2001 và do UBND tỉnh Quảng Ngãi thành lập tại Cù Lao Chàm năm 2005. Danh mục 15 khu bảo tồn biển vẫn đang trong quá trình chờ đợi phê duyệt của Chính phủ. Mặc dù hai khu đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đã được Ban thư ký Công ước Ramsar công nhận là khu Ramsar nhưng trên thực tế, chưa có quy hoạch hệ thống khu bảo tồn đất ngập nước.
            - Cơ chế chính sách quản lý các khu bảo tồn còn phức tạp, chưa rõ ràng: sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương còn yếu; chính quyền địa phương nhiều nơi còn thiếu năng lực và tài chính để tiến hành hiệu quả công tác quản lý các khu bảo tồn. Bên cạnh đó, 40% số khu bảo tồn được thành lập chưa có ban quản lý và ngay cả đối với các khu bảo tồn có ban quản lý thì trách nhiệm và quyền hạn của họ cũng chưa được quy định rõ hoặc năng lực quản lý còn chưa đáp ứng được với yêu cầu.
            - Quy hoạch bảo tồn còn có nhiều hạn chế: Nhiều khu bảo tồn thiên nhiên có diện tích nhỏ do đó khó có khả năng thực hiện chức năng bảo tồn ĐDSH , bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, đặc thù. Các khu rừng đặc dụng mặc dầu đã được thành lập nhưng ranh giới của nhiều khu chưa được xác định rõ ràng trên thực địa. Bên cạnh đó, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên cũng không đủ đại diện các hệ sinh thái quan trọng; nhiều khu vực có giá trị ĐDSH cao còn nằm ngoài các khu bảo tồn; các qui chế hiện hành không hướng dẫn đầy đủ về việc xác định, quy hoạch và quản lý vùng đệm.
            - Chưa huy động được sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý khu bảo tồn: Các quy định hiện tại thường không tạo cơ hội cho những người dân sống xung quanh khu bảo tồn khai thác, sử dụng bền vững các tài nguyên thiên nhiên. Thực tế cho thấy, nếu hoạt động này thu hút được sự tham gia và ủng hộ của những người dân sống trong vùng đệm thì sẽ thu được hiệu quả cao hơn. Do đó, cần nghiên cứu các biện pháp thu hút sự tham gia của cộng động địa phương vào quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên tại các khu bảo tồn.
            - Xung đột giữa phát triển kinh tế và bảo tồn ĐDSH ở các khu bảo tồn: Vẫn còn nhiều mâu thuẫn giữa phát triển và bảo tồn. Một số quyết định về xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ lâm nghiệp, nhà máy thủy điện, du lịch sinh thái... gây tác động xấu tới ĐDSH .
Nạn phá rừng, săn bắt động vật hoang dã đã và đang làm cho ĐDSH bị suy giảm. Các chế tài hiện hành để xử lý các hoạt động bất hợp pháp chưa được thực hiện triệt để và có hiệu quả.
            - Chưa có hệ thống quan trắc/giám sát ĐDSH : Quan trắc ĐDSH tại các khu bảo tồn sẽ giúp đánh giá biến động của ĐDSH và hiệu quả của công tác bảo tồn. Hiện nay, vẫn còn thiếu quy hoạch hệ thống quan trắc ĐDSH , cũng như cơ sở dữ liệu về ĐDSH . Do vậy, thông tin về hiện trạng và diễn biến ĐDSH thường rất tản mạn và không thống nhất.
            - Đầu tư cho hệ thống các khu bảo tồn còn chưa thỏa đáng và hiệu quả: Kinh phí để quản lý các khu bảo tồn chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Đối với các khu bảo tồn do địa phương quản lý, nguồn kinh phí (chủ yếu là từ UBND tỉnh) rất hạn hẹp. Bên cạnh đó, đối với các khu bảo tồn trên cả nước, phần lớn kinh phí (60%) được dùng vào mục đích xây dựng cơ bản; chỉ phần nhỏ kinh phí còn lại dành cho các hoạt động bảo tồn. Ngoài ra, cơ chế khuyến khích các khu bảo tồn tự tìm kiếm nguồn tài chính còn hạn chế do đó hoạt động của các khu bảo tồn chủ yếu là bảo vệ một cách thuần tuý mà chưa có đóng góp về mặt kinh tế.
3.2.3.Những yêu cầu đổi mới
- Cần sớm có quy hoạch ĐDSH , trong đó có quy hoạch các khu bảo tồn rừng đặc dụng, biển và đất ngập nước: Như đã đề cập ở trên, ĐDSH trong khu bảo tồn và ngoài khu bảo tồn có mối liên hệ rất chặt chẽ. Hơn nữa, hệ thống các khu bảo tồn hiện nay còn chưa hoàn chỉnh xét ở góc độ tương đồng giữa các hệ sinh thái rừng, biển và đất ngập nước. Vì vậy, nhu cầu có một quy định về quy hoạch ĐDSH rất cần thiết.
- Thống nhất quản lý hệ thống khu bảo tồn: cần giao trách nhiệm cho một cơ quan nhà nước làm đầu mối quản lý khu bảo tồn, có sự phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý các khu bảo tồn: giữa các bộ ngành; giữa trung ương và địa phương.
- Rà soát, xây dựng, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý khu bảo tồn: cần có một Nghị định của Chính phủ về các khu bảo tồn nhằm thực thi Luật ĐDSH trong thời gian tới cũng như các văn bản dưới luật quy định về khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên ở vùng đệm của các khu bảo tồn.
- Xây dựng hướng dẫn về lập kế hoạch quản lý khu bảo tồn. Kế hoạch quản lý là một tài liệu hướng dẫn và kiểm soát việc quản lý và sử dụng nguồn lực của khu bảo tồn, cơ cấu tổ chức, xây dựng các cơ sở vật chất cần thiết để thực hiện kế hoạch quản lý. Dó đó cần có quy định pháp lý và hướng dẫn cụ thể về nội dung và quá trình lập kế hoạch quản lý.
- Tăng cường vai trò của cộng đồng:Để tăng cường vai trò của cộng đồng cần có chính sách đối với những cộng đồng sống trong các khu bảo tồn, các chương trình tạo sinh kế thay thế và hỗ trợ người dân tái định cư; xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích bảo vệ ĐDSH dựa vào cộng đồng và lồng ghép các nguyên tắc sử dụng bền vững, cách sống thân thiện với môi trường; thực hiện truyền thông quốc gia dài hạn về tầm quan trọng của ĐDSH; xây dựng và mở rộng các mô hình quản lý ĐDSH dựa vào cộng đồng. 
- Phát triển hợp lý để bảo tồn ĐDSH : Trước tiên, cần có các biện pháp mạnh để ngăn chặn, xử lý các hoạt động khai thác tài nguyên bất hợp pháp như chặt phá rừng, săn bắn trái phép. Ngoài ra, cần có quy định rõ ràng về các loại cơ sở hạ tầng được phép phát triển, những công trình này phải không ảnh hưởng tiêu cực đến ĐDSH khu bảo tồn.  
- Xây dựng hệ thống giám sát ĐDSH : Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần đánh giá lại hệ thống giám sát và báo cáo về đang dạng sinh học đang được áp dụng, tiếp theo là quy định về trách nhiệm giám sát và báo cáo ở cấp địa phương tại Luật ĐDSH .
- Đổi mới cơ chế tài chính các khu bảo tồn: Các khu bảo tồn cần xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn theo chu kỳ ba năm dựa trên các kế hoạch đầu tư và nhu cầu về kinh phí trong giai đoạn lập kế hoạch. Phát triển các cơ chế nhằm tăng nguồn thu cho các khu bảo tồn, như cơ chế chi trả dịch vụ môi trường, phí và lệ phí... Đồng thời tiến hành phân cấp quản lý và có các chính sách cho phép Ban quản lý các khu bảo tồn tìm kiếm nguồn kinh phí bổ sung./.
 

 


* TS. Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
** ThS. Trưởng phòng bảo tồn thiên nhiên, Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường
[1] Công ước toàn cầu về ĐDSH chính thức được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh các nước Liên hiệp quốc về vấn đề môi trường và phát triển ở Rio de Janeiro, ngày 05/06/1992. Ba mục tiêu chính của Công ước là: i)Bảo tồn ĐDSH; ii) Sử dụng bền vững các thành phần của ĐDSH; iii) Chia sẻ công bằng, hợp lý các lợi ích từ việc sử dụng các nguồn gen. Trong khuôn khổ của Công ước, hai phương thức bảo tồn ĐDSH chính đã được đề cập, đó là: bảo tồn tại chỗ (insitu) và bảo tồn chuyển chỗ (ex situ). Việc thành lập và bảo tồn ĐDSH tại các khu bảo tồn là một trong những nhiệm vụ quan trọng được đề xuất trong Công ước (Điều 8. a).

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17(133), tháng 10/2008)


Thống kê truy cập

33933404

Tổng truy cập