Nước và Nhà nước trong Hiến pháp Việt Nam

01/10/2013

PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

Đại học Luật Hà Nội

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là luật cơ bản của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì nước “là một vùng đất trong đó có những người thuộc một hay nhiều dân tộc cùng sống chung dưới một chế độ chính trị - xã hội và cùng thuộc về một nhà nước nhất định”[1]. Nước là khái niệm để chỉ một quốc gia với lãnh thổ và dân cư ở một vị trí địa lý nhất định. Chẳng hạn, “nước Việt Nam ta là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau” (Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959), nước Việt Nam là một dải đất từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái trên đó có dân cư sinh sống hay “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời” (Điều 1 Hiến pháp năm 1992). Nước Việt Nam còn được hiểu là đất nước và con người Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam. Chẳng hạn, “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia” (Điều 2 Hiến pháp năm 1946), “Các đơn vị hành chính của nước CHXHCNVN…” (Điều 118 Hiến pháp năm 1992)… Như vậy, nước là một khái niệm rộng trong đó phải nói tới vùng đất (lãnh thổ), kèm theo cư dân, và gắn với vùng đất, cư dân ấy là nhà nước. Ngoài ra còn có thể có các thiết chế khác nữa do các cư dân thiết lập nên.
Còn nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai cấp, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình. Nhà nước được sinh ra từ xã hội để quản lý xã hội (đất nước), khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước “là bộ máy quyền lực đặc biệt, được tổ chức chặt chẽ để thực thi chủ quyền quốc gia, tổ chức và quản lý xã hội bằng pháp luật, phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội và thực thi các cam kết quốc tế”[2]. “Nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…” (Điều 2 Hiến pháp năm 1992). Trong nước có thể có nhiều tổ chức khác nhau và nhà nước là một tổ chức trong số đó, nó là một hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp. Nhà nước là một tổ chức được thành lập để quản lý đất nước, song khác với các tổ chức khác như công đoàn, đoàn thanh niên… nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho xã hội, thay mặt xã hội để duy trì trật tự xã hội, giữ cho xã hội ổn định và phát triển.
Trong Hiến pháp của nước ta luôn sử dụng hai chữ “nước” và “nhà nước” để chỉ hai khái niệm có nội hàm khác nhau. Chẳng hạn, nước CHXHCNVN là một nước dân chủ, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời; còn Nhà nước CHXHCNVN là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCNVN về đối nội và đối ngoại; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN. Như vậy, có những thiết chế, những văn bản chỉ của nước hoặc của nhà nước, nhưng cũng có những thiết chế, văn bản vừa của nước lại vừa của nhà nước. “Hiến pháp nước CHXHCNVN là luật cơ bản của Nhà nước”.
Với tư cách là luật cơ bản của nước Việt Nam, Hiến pháp phải là văn bản thể hiện sự thỏa thuận của nhân dân đối với việc thiết lập và thực hiện quyền lực công vì lợi ích chung của cả xã hội. Nhiều người ví Hiến pháp như “khế ước xã hội” để nhân dân thỏa thuận với nhau về việc tổ chức đời sống xã hội, thực hiện việc trao quyền (ủy quyền) và giới hạn quyền lực cho Nhà nước, cũng như cho các thiết chế khác trong xã hội. Thông qua Hiến pháp, nhân dân xác định chính thể của Nhà nước (Nhà nước quân chủ hay Nhà nước cộng hòa…), quy định về hình thức cấu trúc của Nhà nước (Nhà nước đơn nhất hay Nhà nước liên bang…); thực hiện việc trao quyền lực nhà nước cho mỗi cơ quan nhà nước nắm giữ và thực hiện (các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp sẽ do các cơ quan nào nắm giữ, thực hiện…); giới hạn phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước (Nhà nước, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được làm những gì, không được làm những gì bằng việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chúng); quy định cơ chế kiểm soát đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của các tổ chức và cá nhân; cũng thông qua Hiến pháp, nhân dân quy định địa vị pháp lý của các tổ chức khác trong xã hội (địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn, tổ chức đoàn thanh niên…); quy định quyền con người, quy định quy chế pháp lý của công dân và của các cá nhân khác (công dân, các cá nhân khác có những quyền, tự do, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý gì…); quy định sự tham gia của các tổ chức phi nhà nước, của công dân vào việc thực hiện các công việc nhà nước và xã hội; quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước.
Hiến pháp của nước nên Hiến pháp phải là văn bản pháp lý đặc biệt thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Vì vậy, Nhà nước, các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, tức là tôn trọng và chấp hành ý chí của nhân dân. Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp thì có nghĩa là họ đã vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban hành các văn bản pháp luật không phù hợp với Hiến pháp, trái Hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân[3]. Không chỉ đòi hỏi Nhà nước phải tôn trọng và thực hiện nghiêm minh Hiến pháp, nhân dân còn đòi hỏi tất cả các tổ chức phi nhà nước khác (tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội…) cũng phải tôn trọng và thực hiện nghiêm minh Hiến pháp. Tinh thần này được thể hiện ở Điều 12 Hiến pháp năm 1992: “Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật”.
Với tư cách là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất, Hiến pháp phải là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện cả hệ thống pháp luật của đất nước, tất cả mọi văn bản pháp luật khác do Nhà nước Việt Nam ban hành phải dựa trên cơ sở của Hiến pháp, nhằm để thực hiện Hiến pháp và phải có nội dung phù hợp với Hiến pháp. Như vậy, Hiến pháp là một bộ phận, nhưng là bộ phận vô cùng quan trọng của pháp luật thực định. Trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước CHXHCNVN thì Hiến pháp được xem là luật cơ bản quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, là văn bản thể hiện tư tưởng của Đảng dưới hình thức những quy định pháp luật. Hiến pháp nước CHXHCNVN do Quốc hội Việt Nam là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN ban hành theo trình tự, thủ tục đặc biệt. Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước và những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ… Hiến pháp là cơ sở để Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật khác. Với tư cách là luật cơ bản, Hiến pháp chỉ quy định những vấn đề chung, cơ bản mang tính nguyên tắc của Nhà nước như cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước... Do Hiến pháp không thể quy định được tất cả những gì liên quan tới Nhà nước, vì vậy, đòi hỏi phải có sự chi tiết, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp bằng các văn bản, các quy định khác. Nếu không có sự chi tiết, cụ thể đó, những quy định của Hiến pháp sẽ khó đi vào cuộc sống, thậm chí có những quy định không thể thực hiện được. Vì lẽ đó, thông qua Hiến pháp, nhân dân uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động có thể ban hành luật và các văn bản dưới luật khác, nhằm để thực hiện Hiến pháp. Việc chi tiết, cụ thể hoá Hiến pháp bằng các văn bản pháp luật khác phải được thực hiện trên cơ sở Hiến pháp và phải bảo đảm điều kiện là tất cả các văn bản pháp luật đó phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp.
Như vậy, Hiến pháp không chỉ là văn bản quy định và thể hiện sự đồng thuận của nhân dân về những vấn đề quan trọng của xã hội mà còn là văn bản quy định việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Như đã phân tích, theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, “nước” và “nhà nước” là hai thực thể luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Chẳng hạn, Điều 101 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước CHXHCNVN về đối nội và đối ngoại”; Điều 134 Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân tối cao” là một cơ quan của Nhà nước CHXHCNVN nhưng lại là “cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCNVN” nên khi xét xử, Tòa án nhân danh nước CHXHCNVN chứ không phải nhân danh Nhà nước… Như vậy, chúng ta thấy Hiến pháp quy định nhiều thứ của “nước” ở phương diện này, nhưng đồng thời lại là của “nhà nước” ở phương diện khác và ngược lại. Nhà nước được thành lập và tồn tại trên một lãnh thổ (vùng đất) với những dân cư nhất định, còn “nước” gồm lãnh thổ và dân cư thuộc về một “nhà nước” nhất định. Do vậy, nếu thể hiện không cẩn thận về nội dung cũng như trình tự thủ tục lập hiến, có thể dẫn đến sự hiểu nhầm và đánh giá không hết những giá trị to lớn của Hiến pháp không chỉ đối với Nhà nước mà còn đối với xã hội.
Nội dung của Hiến pháp Việt Nam 1992 hơi nghiêng về “Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước” nên có nhiều quy định theo hướng đề cao vai trò của Nhà nước so với nước (nhân dân), còn xem nhẹ vai trò của nhân dân (nước) trong ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Vì nhấn mạnh đến Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước nên từ nội dung đến quyền xây dựng, giám sát, thực thi Hiến pháp đều được quy định cho Nhà nước là chủ yếu, còn nội dung của nước trong Hiến pháp khá mờ nhạt. Chẳng hạn, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã quy định cho Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCNVN, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến; chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp; việc sửa đổi Hiến pháp chỉ cần Quốc hội biểu quyết tán thành; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp… Với những quy định này, chỉ cần một cơ quan đại biểu của nhân dân, đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã có thể thay mặt nhân dân, thay mặt Nhà nước thực hiện từ A đến Z việc xây dựng, sửa đổi, thông qua, giám sát việc thực thi Hiến pháp, còn nhân dân chỉ “có quyềntham gia thảo luận, đóng góp ý kiến về dự thảo Hiến pháp và có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Như vậy, nhân dân không những bị hạn chế về quyền lập hiến mà trình tự, thủ tục lập hiến cũng chưa thể hiện được vai trò quyết định của nhân dân. Thiết nghĩ, việc sửa đổi Hiến pháp lần này cần có sự thay đổi cả về nội dung và cả quy trình, thủ tục lập hiến cho dân chủ, hiệu quả hơn, cần phải thể hiện được tinh thần chủ quyền tối cao trong đất nước phải thuộc về nhân dân, để nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam làm chủ, Nhà nước Việt Nam thực sự là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Có thể nói, “nước” và “nhà nước” là hai thuật ngữ khác nhau, để chỉ hai nội hàm khác nhau, song trong Hiến pháp nước ta sự phân biệt này cũng chưa thật rõ ràng. Do vậy, việc sửa đổi Hiến pháp Việt Nam năm 1992 lần này cần phải làm rõ hơn nữa khái niệm nướcnhà nước, cần quy định rõ hơn Hiến pháp của nước thì cần quy định những gì thuộc về nước và quy định như thế nào? Hiến pháp với tư cách là luật cơ bản của Nhà nước thì cần quy định những gì thuộc về Nhà nước và quy định như thế nào. Chẳng hạn, Chủ tịch nước với tư cách là nguyên thủ quốc gia thay mặt nước về đối nội và đối ngoại thì có quyền làm những gì? Còn với tư cách là người đứng đầu Nhà nước thì có quyền làm những gì? Tòa án là cơ quan xét xử của nước thì những tổ chức, cá nhân nào có quyền tác động đến quyết định của Tòa án...
2. Nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò của nhân dân trong xây dựng và thực hiện Hiến pháp
Để thể hiện tinh thần Hiến pháp của nước thì cần nâng cao vị trí, vai trò của nhân dân đối với việc xây dựng và thực thi Hiến pháp. Do vậy, chúng tôi cho rằng, nên sửa đổi một số nội dung của Hiến pháp năm 1992 theo hướng sau:
a. Bỏ chữ “là luật cơ bản của Nhà nước” trong Điều 146, chỉ cần quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước CHXHCNVN, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác do các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành đều phải phù hợp với Hiến pháp.
Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”.
Việc quy định như vậy sẽ tránh được sự hiểu lầm là Hiến pháp chỉ là luật cơ bản của Nhà nước, không thấy hết bản chất, nội dung rộng lớn của Hiến pháp với tư cách là “luật cơ bản” của nhân dân. Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và năm 1959 không quy định Hiến pháp là của Nhà nước, chỉ bắt đầu từ Hiến pháp Việt Nam năm 1980 và năm 1992 mới có quy định trên.
Hiến pháp của nước, nên Đảng (các tổ chức của Đảng và đảng viên), Nhà nước (các cơ quan, nhân viên nhà nước), các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, tức là tôn trọng và thực hiện ý chí của nhân dân. Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp thì có nghĩa là họ đã vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban hành các văn bản pháp luật trái Hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân. Văn kiện của các tổ chức (trừ văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam) cũng không được ban hành trái Hiến pháp.
b. Không nên bó hẹp nội dung của Hiến pháp, nội dung của Hiến pháp, ngoài việc quy định các vấn đề của Nhà nước cần quy định các vấn đề quan trọng của quốc gia như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước. Tuy nhiên đối với những vấn đề này chỉ nên quy định những định hướng chính của sự phát triển mà không nên quy định quá chi tiết, cụ thể, bởi xã hội phát triển rất đa dạng và nhanh chóng.
Khi quy định các vấn đề của xã hội thì không nên theo mô-típ nhấn mạnh quá mức vào vai trò của Nhà nước. Chẳng hạn, “Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…” hay “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực…” mà nên quy định theo cách không có chủ ngữ hoặc là ngầm hiểu là nhân dân (nước) quy định chứ không phải Nhà nước. Chẳng hạn, “Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… với nhiều thành phần kinh tế và nhiều chế độ sở hữu…”. Cách quy định như vậy sẽ thể hiện được tinh thần Hiến pháp (của) nước, chứ không chỉ là luật cơ bản của Nhà nước và Nhà nước chỉ quản lý xã hội, Đảng lãnh đạo xã hội, còn nhân dân mới thực sự là chủ của đất nước.
c. Đề cao vai trò của nhân dân trong việc quyết định cuối cùng về việc xây dựng, sửa đổi Hiến pháp dưới hình thức trưng cầu ý dân bằng việc bổ sung thêm quyền sáng kiến lập hiến của nhân dân và quyền phúc quyết của nhân dân đối với quyết định xây dựng và sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội.
Ngoài các cơ quan nhà nước như Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, cần bổ sung các chủ thể khác như Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc một số lượng nhất định đơn vị hành chính cấp tỉnh cũng có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp.
Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Các chủ thể có quyền có sáng kiến lập hiến nếu không đồng ý với quyết định của Quốc hội thì có quyền đề nghị trưng cầu ý dân về quyết định đó.
Do vị trí và tính chất đặc biệt của Hiến pháp và điều kiện hiện nay ở nước ta, dân trí đã được nâng cao, dân chủ được mở rộng và củng cố, nên cần có thủ tục trưng cầu ý dân về Hiến pháp, nghĩa là, việc sửa đổi hoặc xây dựng Hiến pháp mới sau khi được Quốc hội chính thức thông qua, cần được đưa ra trưng cầu ý dân để cử tri cả nước biểu thị ý chí của mình đối với nội dung bản Hiến pháp.
Do vậy, đối với vấn đề sáng kiến lập hiến và thông qua Hiến pháp, chúng tôi đề nghị quy định như sau:
“1.Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội hay một phần ba tổng số đơn vị hành chính cấp tỉnh có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội quyết định;
2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định;
3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp;
4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành và có ít nhất quá nửa số tổng số cử tri cả nước biểu quyết tán thành thông qua việc trưng cầu ý dân.
5. Trong những trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định việc trưng cầu hoặc không trưng cầu ý dân về Hiến pháp”.
- Việc bổ sung thêm Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và một phần ba tổng số đơn vị hành chính cấp tỉnh có quyền đề nghị làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp là vì: Hiến pháp của nước nên việc đề nghị ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải do cả các cơ quan nhà nước đề nghị và có thể do các tổ chức phi nhà nước (Đảng và Mặt trận) là những tổ chức có vai trò quan trọng trong xã hội đề nghị. Trên thực tế, việc sửa đổi Hiến pháp 1992 là sáng kiến của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ XI.
- Việc bổ sung thêm quyền của nhân dân quyết định cuối cùng việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp chỉ đặt ra khi quyết định của Quốc hội về việc làm hoặc sửa đổi Hiến pháp bị chủ thể có thẩm quyền sáng kiến lập hiến khiếu nại là vì: Hiến pháp của nước nên quyền quyết định cuối cùng về lập hiến phải thuộc về nhân dân. Nội dung của Hiến pháp được xem là những thỏa thuận của nhân dân trong việc thiết lập và thực hiện quyền lực công trong tổ chức đời sống xã hội vì lợi ích chung của cả xã hội và của mỗi cá nhân. Thông qua Hiến pháp, nhân dân thực hiện việc trao quyền và giới hạn quyền lực cho Nhà nước, cũng như cho các thiết chế khác trong xã hội; quy định cơ chế kiểm soát đối với việc thực hiện quyền lực công của các tổ chức và cá nhân; ghi nhận quyền con người, quy định quy chế pháp lý của công dân và của các cá nhân khác; quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước. Vì vậy, việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp phải do nước (do nhân dân) quyết định. Đương nhiên, nhân dân không thể tự mình thực hiện được quyền lập hiến, không thể tự làm và sửa đổi Hiến pháp được mà phải thông qua những người đại diện cho nhân dân. Chẳng hạn, có thể thông qua cơ quan đại biểu (đại diện) cao nhất của nhân dân. Nhân dân thường chỉ giữ lại quyền quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và quyền phúc quyết đối với Dự thảo Hiến pháp thông qua việc trưng cầu ý dân. Do vậy:
+ Việc ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải do Quốc hội quyết định. Trong trường hợp quyết định của Quốc hội bị khiếu nại thì Quốc hội có thể quyết định tổ chức trưng cầu ý dân về việc ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp.
+ Việc thông qua Dự thảo Hiến pháp phải được Quốc hội tiến hành và được nhân dân phúc quyết thông qua thủ tục trưng cầu ý dân về Hiến pháp, để cử tri cả nước biểu thị ý chí của mình đối với nội dung bản Hiến pháp. Có như vậy, thì chủ quyền nhân dân mới được thể hiện đầy đủ, nhân dân mới thực sự là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân mới được sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và Hiến pháp mới thực sự là của nước CHXHCNVN. Nếu quy định “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”, còn “việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”, thì tính ràng buộc phải trưng cầu ý dân không có, nên Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp cũng được mà không trưng cầu cũng được, Dự thảo Hiến pháp vẫn được thông qua. Việc quy định như vậy đã làm hạn chế quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng bầu cử, trưng cầu ý dân và các hình thức dân chủ trực tiếp khác; bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6 Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi). Trên thực tế Nhà nước Việt Nam chưa lần nào tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Chúng tôi cho rằng, Quốc hội chỉ nên quyết định việc hoãn hoặc không trưng cầu ý dân về Hiến pháp khi có căn cứ khẳng định rằng điều kiện đất nước không cho phép.
Việc quy định thủ tục nhân dân phúc quyết bắt buộc đối với Dự thảo Hiến pháp để khẳng định nội dung của Hiến pháp thực sự thể hiện ý chí chung của nhân dân Việt Nam là rất cần thiết. Chúng ta chưa có điều kiện hay chưa tin tưởng vào sự sáng suốt của nhân dân và đến bao giờ chúng ta mới có thể thực hiện được việc nhân dân phúc quyết đối với Dự thảo Hiến pháp, mặc dù vấn đề này đã được đặt ra và được ghi nhận ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 (Điều 21 Hiến pháp 1946: Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia…; Điều 70 Hiến pháp 1946: Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a/ Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu... c/ Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết…). Trong khi trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, dân chủ ngày càng được mở rộng, thì chủ quyền nhân dân càng phải được thể hiện và được thực hiện đầy đủ hơn, nhân dân phải thực sự là chủ thể tối cao của đất nước.
d. Quy định vai trò giám sát tối cao của nhân dân đối với việc thực hiện Hiến pháp, thực hiện quyền lực nhà nước.
Như một nguyên tắc, tất cả các cơ quan nhà nước, kể cả Quốc hội đều phải bị giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, nếu không quyền lực nhà nước có thể sẽ được thực hiện không đúng, không hiệu quả. Muốn thực hiện được việc này, đòi hỏi trong Hiến pháp phải quy định:
“Các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước phải kiểm soát và chịu sự kiểm soát của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực nhà nước”.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, nên quy định như sau: Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Thực hiện quyền lập hiến; ban hành luật;
2. Giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;…
Việc thay chữ “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp” thành “thực hiện quyền giám sát việc thực hiện Hiến pháp” là vì: Quốc hội chỉ có thể thực hiện quyền “giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” mà không thể giám sát tối cao việc thực hiện Hiến pháp. Bởi, Hiến pháp của nước nên quyền giám sát tối cao việc thực hiện Hiến pháp phải thuộc về nhân dân - chủ thể tối cao của đất nước./.


[1] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 2003, tr.746.
[2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2013, tr.35.
[3] Xem, Nguyễn Minh Đoan, “Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp 2002. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20(252), tháng 10/2013)


Thống kê truy cập

33941579

Tổng truy cập