Cải cách tại thế giới thứ ba: tính đồng bộ

01/11/2003

Nguyễn Trần Bạt* Công ty Investconsult Group


I. Nhìn lại các cuộc cải cách của các nước thế giới thứ ba
Tựu trung có thể phân thành bốn cuộc cải cách cơ bản từ xưa tới nay: cải cách kinh tế, cải cách chính trị, cải cách văn hóa và cải cách giáo dục. Mục tiêu của chúng là tìm lời giải cho sự phát triển của xã hội, và có chungđối tượng là cuộc sống. Quan sát các cuộc  cải cách ở các nước thế giới thứ ba, bài viết nhận thức lại về các cuộc cải cách, mối quan hệ và tác động qua lại giữa chúng, tìm ra nguyên nhân thất bại, từ đó rút ra những bài học. Các cuộc cải cách ở thế giới thứ ba nhằm mục đích chung là đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói nghèo và lạc hậu. Những bài học thất bại của các cuộc cải cách này chủyếu là do nhận thức sai lầm về bản chất và mục tiêu của các cuộc cải cách, do đó  khôngđịnh hướng được cái đích cần đi tới. Hầu hết các nước thế giới thứ ba đều tiến hành cải cách một cách bị động, gượng ép, theo đòi hỏi của các tổ chức quốc tế chứ không phải cải cách vì nhu cầu tự thân để phát triển. Tôi cho rằng các cuộc cải cách ở các nước thế giới thứ ba đều có chung ba nhược điểm sau:
1. Tính tình thế của cải cách kinh tế và cải cách chính trị
Nhìn chung, các cuộc cải cách ở các nước thế giới thứ ba đều do sức ép từ bên ngoài, tức là sức ép của quốc gia khác, các tổ chức quốc tế hay các tổ chức tài chính quốc tế. Chính vì vậy, các thành phần xã hội hầu như không nhận được “cảm hứng phát các cuộc cải cách, do đó các cuộc cải cách vừa đau đớn, vừa vất vả, vừa không trọn vẹn. Lấy Indonesia làm một ví dụ. Từ khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra đầu tiên ở Thái Lan năm 1997, Indonesia rơi vào khủng hoảng toàn diện, trước hết là sự sụp đổ nhanh chóng của nền kinh tế. Tiếp theo là những vụ bạo động và biểu tình chống chính phủ đã dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Suharto ngự trị hơn 30 năm ở nước này. Sự sụp đổ của cả thể chế chính trị lẫn thể chế kinh tế đã đẩy Indonesia vào những bất ổn nghiêm trọng. Tình thế đó bắt buộc nước này phải tiến hành cải cách cả kinh tế và chính trị theo những “tiêu chuẩn” của IMF và của một số lực lượng khác. Tuy nhiên, “phương thuốc” của IMF cho đến nay không làm cho tình hình kinh tế và chính trị tại nước này được cải thiện. Tâm lý chống phương Tây trong xã hội trở ngày càng gia tăng. Cùng với tâm lý chống phương Tây, trào lưu chống toàn cầu hoá trên toàn thế giới hiện nay cũng chứng tỏ các nước thế giới thứ ba không ý thức được những đòi hỏi tự nhiên của các cuộc cải cách, do đó phải chịu sức ép từ bên ngoài, từ tình thế khách quan khi tham gia hội nhập.Như vậy, khi khủng khoảng xảy ra và lâm vào tình thế khó khăn, các nước thế giới thứ ba mới cải cách để thoả mãn các điều kiệnđược cứu trợ, được vay vốn hay cải cách đểđược tham gia vào các câu lạc bộ tài chính quốc tế. Kết quả là, các lực lượng xã hội bị cưỡng bức và có những phản ứng rất khác nhau đối với các cuộc cải cách. Tính thống nhất chính trị ở trong xã hội bị phá vỡ và dođó các chính phủ gặp phải khó khăn, tình hình xã hội bất ổn. Điều này cũng đã từng xảyra từ Argentina, Mexico và Brasil.Tính tình thế của các cuộc cải cách thể hiện rất rõ nhận thức không đầy đủ của các nước thế giới thứ ba về tầm quan trọng và tính tất yếu của các cuộc cải cách. Đây là một trong những sai lầm cơ bản nhất trong khi tiến hành cải cách.
2. Tính nửa vời của cải cách kinh tế và cải cách chính trị
Do nhận thức sai về bản chất và mục tiêu của các cuộc cải cách, đặc biệt là cải cách kinh tế và cải cách chính trị, hầu hết các nước thế giới thứ ba đều tiến hành cải cách một cách gượng ép, không triệt để và không trọn vẹn. Đối với cải cách kinh tế, các nước này hầu như chỉ dừng lại ở cải cách thể chế kinh tế, chỉ tập trung đổi mới thể chế kinh tế cũ, thậm chí thay thế nó bằng một thể chế kinh tế mới mà không nghiên cứu và đề ra chiến lược phát triển các lực lượng kinh  tế.  Nhà nước chỉ cải cách từ bên trên, tức là tập trung xây dựng các thể chế kinh tế để thoả mãn nhu cầu hội nhập hiện đại, do đó các thể chế này thường không phù hợp với nhận thức của xã hội. Điều này phản ánh rất rõ tính hình thức và tính từ trên xuống của cải cách kinh tế. Mặt khác, bản thân cải cách kinh tế cũng chứa đựng trong nó những mầm mống của cải cách chính trị, nhưng trên thực tế, người ta thường né tránh những yếu tố cải cách chính trị khi tiến hành cải cách kinh tế. Đây chính là bản chất nửa vời của cải cách kinh tế tại các nước thế giới thứ ba.Cũng với những nhận thức sai lầm như vậy, cải cách chính trị ở các nước thế giới thứ ba chỉ dừng lại ở cải cách thể chế chính trị. Nó nấp dưới hình thức cải cách hành chính, cải cách tư pháp đơn giản. Cải cách thể chế chính trị là pháp chế hoá các quan hệ xã hộiđã được thoả thuận và việc pháp chế hoá các quan hệ xã hội đã được thoả thuận mới chỉ thừa nhận trạng thái hiện tại của các thoả thuận, chứ chưa phản ánh chất lượng của các thoả thuận, tức là mới cải cách ở mức thừa nhận. Cải cách thể chế chính trị chỉ là một khía cạnh và hoàn toàn chưa đảm bảo tính trọn vẹn của cải cách chính trị theo hướng tiệm cận nền dân chủ.Do đòi hỏi của Liên hợp quốc, IMF và của các hiệp định song phương hay đa phương, các nước thế giới thứ ba buộc phải tiến hành cải cách thể chế, nhưng cũng chỉ tạo ra một thể chế mới về hình thức mà không mới về lực lượng. Người ta vẫn nhầm lẫn là thay đổi lực lượng cầm quyền đồng nghĩa với một cuộc đảo chính chính trị. Vì vậy, vấn đề cải cách ở các nước thế giới thứ ba thường bị giới hạn ở chính nhận thức của các nhà lãnh đạo và do đó mang tính chất không triệt để.
3. Thiếu tầm nhìn trong cải cách văn hoá và cải cách giáo dục
Từ nhiều năm nay, các nước kém  phát triển luôn nhấn mạnh việc bảo tồn và duy trì bản sắc văn hoá dân tộc mà thiếu chú ý tới vai trò phát triển của văn hoá. Sự khép kín của văn hoá là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất kìm hãm sự phát triển của các quốc gia này. Chúng ta đều biết rằng, văn hoá là yếu tố hình thành trong các quá trình hoạt động của đời sống nên nó là yếu tố cũ một cách tương đối hay mang tính lạc hậu tương đối. Bất kỳ yếu tố cũ nào cũng có thể tương thích hoặc không tương thích với sự phát triển. Cải cách văn hoá chính là làm cho tính cũ, tính lạc hậu tương đối của văn hoá không cản trở quá trình phát triển. Hầu hết các nhà chính trị của các nước thế giới thứ ba lại không nhận thức được đầy đủ vai trò của văn hoá trong phát triển hoặc cản trở sự phát triển xã hội, do đó họ chưa có ý thức cải cách văn hoá. Cho đến nay, các nước thế giới thứ ba dường như vẫn sử dụng các yếu tố văn hoá như những công cụ nhằm củng cố và làm nền tâm lý xã hội, cho ổn định chính trị theo cách hiểu của mình. Nhìn nhận một cách khách quan, đây không phải là hạn chế của riêng các nước kém phát triển, ngay cả Singapore cũng mắc phải sai lầm này. Sau một thời gian nhận thức về phát triển một cách không toàn diện, Singapore trở thành một đô thị dịch vụ và công nghiệp nhẹ, rất hấp dẫn đối với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Người dân Singapore được chuẩn bị như một lực lượng làm thuê, mọi chương trình giáo dục đều hướng tới việc chuẩn bị làm thuê cho các xí nghiệp lớn, chủ yếu là các xí nghiệp nước ngoài. Sau gần ba thập kỷ phát triển theo định hướng như vậy, nền văn hoá Singapore trở thành một nền văn hoá kinh tế. Trong nền văn hoá ấy, người dân suy nghĩ một cách máy móc, đơn giản, chẳng hạn thành đạt tức là trở thành một viên chức, một quan chức cao cấp của các công ty đa quốc gia. Đất nước nhỏ bé này không có các xí nghiệp vừa và nhỏ, bản năng kinh doanh không tồn tại thay vào đó là bản năng làm thuê. Người lao động không được rèn luyện khả năng sáng tạo mà chỉ được rèn luyện kĩ năng thực thi công nghệ của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Nguy hiểm hơn, người dân Singapore trở nên đơn điệu về tinh thần, tư tưởng, thẩm mỹ và lối sống. Singapore là ví dụ điển hình về tính ngắn hạn của tầm nhìn trong việc xây dựng các chương trình cải cách hay hoạch định chính sách. Singapore không có tầm nhìn về văn hoá, mọi tiếng nói về văn hoá đều nói về bản sắc chứ không nhận thức được rằng tâm lý, thói quen của con người phải phù hợp với đòi hỏi của thời đại.Có thể nói, các nước kém phát triển trong khi chú trọng cải thiện mức sống, lại thiếu tầm nhìn về văn hoá, do đó không tiến hành cải cách văn hoá hoặc khất lần nhiệm vụ quan trọng này. Trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, giao lưu văn hoá là một trong những nội dung chủ yếu của tiến trình hội nhập, do đó, cải cách văn hoá để đổi mới nhận thức là nhu cần bức thiết không chỉ của riêng các nước thế giới thứ ba mà của tất cả các nước trên thế giới.Bên cạnh ba cuộc cải cách kinh tế, chính trị và văn hoá, một cuộc cải cách khác vô cùng quan trọng và chứa đựng trong nó nội dung của ba cuộc cải cách trên, đó chính là cải cách giáo dục. Do nhiều sai lầm, đặc biệt là về tầm nhìn nên các nước thế giới thứ ba cho đến nay chưa thành công trong cải cách giáo dục. Nền giáo dục của các nước  này chưa lấy con người là trung tâm của quá trình giáo dục, các nhà cải cách giáo dục tách rờiđời sống hiện thực, do đó tạo ra một đội ngũ tri thức vừa không có kinh nghiệm thực tiễn vừa không có năng lực dự báo tương lai một cách có chất lượng. Việt Nam là một ví dụ. Nhiều chương trình cải cách trong lĩnh vực giáo dục đã được tiến hành nhưng hầu hếtđều thất bại do chỉ cải cách trên phương diện lý thuyết. “Các nhà đi giáo dục phải được giáo dục” là kết luật vô cùng xác đáng của Cácư Mác, suy rộng ra, các nhà cải cách giáo dục cũng phải được giáo dục về cải cách. Cải cách giáo dục nhằm chuẩn bị lực lượng cho tương lai, do đó phải biết rõ tương lai cần gì và điều này đòi hỏi phải có tầm nhìn. Các nước thế giới thứ ba đã tiến hành cải cách giáo dục trên nhiều cấp độ nhưng chưa gắn cải cách giáo dục với các cuộc cải cách còn  lại, do đó không đạt được mấy thành công.Tóm lại, các cuộc cải cách ở các nước thế giới thứ ba chỉ là những giải pháp bắt buộc nhằm đối phó với tình thế chứ không chứađựng cảm hứng phát triển để có thể tiến hành một cách đồng bộ và hiệu quả.
II.   Tính đồng bộ của các cuộc cải cách
Những phân tích về nhược điểm của các cuộc cải cách ở trên cho thấy các nước thế  giới thứ ba chưa nhận ra yếu tố quan trọng nhất, quyết định thành công của một chương trình cải cách toàn diện là tính đồng bộ của cuộc cải cách và chưa ý thức đầy đủ về sự cần thiết phải hoạch định các chương trình cải cách trong mối tương quan với nhau và trong sự gắn kết với cuộc sống. Sự đồng bộ của các cuộc cải cách, theo tôi, chính là nhân tố quyết định thành công của các cuộc cải cách. Việc nghiên cứu tính đồng bộ của các cuộc cải cách có ý nghĩa vô cùng quan trọng và đòi hỏi phải được nghiên cứu thấu đáo, ởđây chúng tôi chỉ xin đưa ra một số suy nghĩ có tính chất lý luận ban đầu.
1. Sự cần thiết phải tiến hành đồng bộ các cuộc cải cách
Quan niệm về tính đồng bộ: Sự đồng bộ của các cuộc cải cách chính là sự xuất hiệnđúng lúc, đúng thời điểm của mỗi cuộc cải cách trong sự kết hợp hữu cơ, nhịp nhàng giữa các cuộc cải cách đó. Đồng bộ không có nghĩa là đồng thời vì các cuộc cải cách này có quan hệ chặt chẽ lẫn nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau, làm tiền đề hoặc bảo trợ cho nhau. Có thể nhiều người sẽ đặt câu hỏi: sựđồng bộ của các cuộc cải cách mang tính tự nhiên hay cần có sự can thiệp của một lực lượng nào đó? Cần phải hiểu rằng cải cách hay chương trình cải cách là một quá trình chủ động, do đó tính đồng bộ của các chương trình cải cách đòi hỏi tính tự giác và nhận thức của người dân về sự đúng đắn của các cuộc cải cách. Nếu để tính đồng bộ xuất hiện tự nhiên, tức là các cuộc cải cách xuất hiện tự nhiên thì người dân sẽ không nhận ra được giá trị và sức mạnh chủ động của hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị ở các nước thế giới thứ ba phải thể hiện được sức mạnh của mình thông qua nâng cao năng lực quan sátđể nhận ra tính khách quan của các thời điểm tiến hành cải cách, chứ không phải để nó xuất hiện một cách tự nhiên.Tại sao phải đồng bộ?: Trước hết, chúng ta phải xem các cuộc cải cách không phải là vì chính nó, mà là những đòi hỏi tự nhiên, những đòi hỏi thật sự của cuộc sống. Chính trị, kinh tế và văn hoá là ba bộ phận khác nhau của hệ thống hình thái xã hội nên các cuộc cải cách trên các lĩnh vực nói trên có quan hệ tương tác, quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, chúng đều hội tụ về cuộc cải cách thứ tư là cải cách giáo dục vì cải cách giáo dục chính là nhằm chuẩn bị lực lượng cho tương lai. Hơn nữa, như trên đã phân tích, những hạn chế của các cuộc cải cách tại các nước thế giới thứ ba cho thấy tính ngắn của tầm nhìn trong việc xây dựng các chương trình cải cách hay hoạch định chính sách phát triển. Thiếu sự đồng bộ giữa cáccuộc cải cách làm cho các cuộc cải cách không có sự liên hoàn và hỗ trợ lẫn nhau, và thiếu sự đồng bộ trong mỗi cuộc cải cách dẫnđến các cuộc cải cách đều mang tính nửa vời. Cả hai trường hợp đều không mang lại kết quả như mong muốn. Do đó, các cuộc cải cách cần phải tiến hành đồng bộ để đảm bảo tính liên hoàn và hỗ trợ lẫn nhau.
2.   Đảm bảo tính đồng bộ của các cuộc cải cách
Phải khẳng định sự đồng bộ của các cuộc cải cách thể hiện không chỉ trong mối quan hệ giữa các cuộc cải cách mà còn trong bản thân mỗi cuộc cải cách và việc xác định tínhđồng bộ phụ thuộc vào sự nhạy cảm của các nhà lãnh đạo các cuộc cải cách. Để đảm bảo sự thành công của các cuộc cải cách, các nước thế giới thứ ba cần phải nghiên cứu mối quan hệ và tác động qua lại giữa các cuộc cải cách để xác định đúng thời điểm thích hợp tiến hành cải cách.Cải cách kinh tế tạo tiền đề cho cải cách chính trị và cải cách văn hoáĐối với các nước thế giới thứ ba, do đời sống của người dân còn rất thấp, dưới mức nghèo khổ cho nên cải cách kinh tế là cấp bách và cần phải tiến hành trước tiên. Cải cách kinh tế trước hết giải thoát người dân ra khỏi tình trạng nghèo đói, đồng thời bảo đảm quyền dân chủ cho nhân dân và tạo tiền đề cho cải cách chính trị. Cải cách kinh tế tạo quyền tự do kinh tế cho người dân và trên cơ sở nhận thức được quyền tự do kinh tế, người dân sẽ nhận ra lợi ích của tự do chính trị. Hơn nữa, cải cách kinh tế còn thức tỉnh người dân về các giá trị văn hoá và các giá trị tinh thần... Tuy nhiên, các cuộc cải cách kinh tế ở các nước thế giới thứ ba mới chỉ dừng lại ở cải cách thể chế kinh tế chứ chưa toàn diện. Cải cách thể chế kinh tế tức là làm cho các thể chế kinh tế trở nên tốt hơnư chưa đủ để đảm bảo sự phát triển vững mạnh của cả nền kinh tế. Cùng với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, cạnh tranh trở thành đòi hỏi toàn cầu thì việc phát triển lực lượng sản xuất hay lực lượng kinh tế của xã hội theo hướng hội nhập là một đòi hỏi khách quan. Có thể nói, hoạchđịnh chính sách để phát triển các lực lượng kinh tế là đặc điểm quan trọng nhất của kinh tế chính trị học hiện đại. Cải cách kinh tế, như vậy, bao gồm hai công việc rất rõ ràng là (i) cải cách thể chế để pháp chế hoá các trạng thái kinh tế, các trạng thái phát triển của kinh tế và (ii) tạo không gian phát triển tự do cho các lực lượng kinh tế theo khuynh  hướng  cạnh tranh toàn cầu. Sự đồng bộ trong cải cách kinh tế không chỉ dừng lại ở cải cách thể chế kinh tế mà phải cải cách toàn diện đến mức các lực lượng kinh tế phát triển rầm rộ, hùng hậu. Có nhận thức sai lầm cho rằng chỉ cần có yếu tố chính trị trong cải cách kinh tế tức là đã có cải cách chính trị rồi. Sự nhầm lẫn này đã dẫn đến trì hoãn cải cách chính trị nên không tạo ra sự đồng bộ có chất lượng hệ thống.Tóm lại, tính đồng bộ trong cải cách kinh tế phải được đảm bảo để tạo ra tiền đề cho các cuộc cải cách còn lại. Cải cách kinh tế phải tạo không gian phát triển cho các lực lượng kinh tế, không phải chỉ là không gian pháp luật mà còn là không gian chính trị, và chính không gian chính trị sẽ tạo cảm hứng cho các cuộc cải cách khác. Đây cũng chính là bản chất của kinh tế chính trị học hiện đại.Cải cách chính trị bảo trợ cho cải cách kinh tế và cải cách văn hoáCải cách chính trị nhằm mục đích nâng cao chất lượng của một thể chế chính trị, làm cho thể chế chính trị đó tính tương thích với nền dân chủ hiện đại và phù hợp với tiến trình phát triển của nhân loại. Mặt khác, chính trị là yếu tố bảo trợ, công cụ bảo trợ cho đời sống nói chung và cho đời sống kinh tế và văn hoá nói riêng. Trong mối quan hệ giữa ba yếu tố kinh tế, chính trị và văn hoá thì chính trị là yếu tố phục vụ, kinh tế là yếu tố chủ chốt trong quá trình phát triển và văn hoá là dung môi tinh thần của toàn bộ đời sống. Yếu tố phục vụ có thể phát triển thụ động và đi sau sự phát triển kinh tế nhưng phải đảm bảo tính hướng dẫn sự phát triển của đời sống kinh tế và đời sống văn hoá. Không tiến hành cải cách chính trị thì mọi cuộc cải cách đều chỉ là những giải pháp tình thế và xã hội không có sự phát triển lâu dài và ổn định. Với ý nghĩa này, cải cách chính trị có vai trò như là một bộ phận trọng yếu, bộ phận bảo hộ cho quá trình cải cách kinh tế ư xã hội đi đến thành công trọn vẹn.Hiện nay, các nước thế giới thứ ba đã tiến hành cải cách chính trị, nhưng chủ yếu tập trung vào cải cách hành chính hay cải cách tư pháp, mà về thực chất chỉ là cải cách thể chế chính trị. Tuy nhiên, một cuộc cải cách chính trị triệt để không chỉ dừng ở cải cách thể chế mà quan trọng hơn là phải tạo cảm hứng chính trị và xây dựng tâm lý chính trị tích cực trên mọi khía cạnh của đời sống xã hội để cả xã hội và thể chế trở thành một thể thống nhất. Cải cách chính trị góp phần nâng cao chất lượng của thể chế chính trị, làm cho nó tương thích với đời sống phát triển chứ không phải thay nó bằng một thể chế chính trị khác. Như vậy, nhiệm vụ quan trọng hơn của cải cách chính trị chính là tạo không gian chính trị tiên tiến, thừa nhận tính dân chủ, ý kiến đa dạng, nhiều chiều trong sinh hoạt chính trị. Chỉ có như vậy, cải cách chính trị mới trở thành yếu tố bảo trợ cho cải cách kinh tế và cải cách văn hoá.
Cải cách văn hoá tạo môi trường tinh thần cho cải cách kinh tế và cải cách chính trịVai trò phát triển của văn hoá bị kìm hãm chính là do con người không có thái độ triết học đúng đắn đối với sự tham gia của các yếu tố văn hoá trong đờisống. Do đó, bản chất của cải cách văn hoá chính là làm thay đổi thái độ của con người đối với nghĩa vụ đóng góp của văn hoá vào trong đời sống phát triển. Nói cách khác, cải cách văn hoá phải hướng tới văn hoá trở thành một hệ thống mở, vừa có khả năng loại bỏ những giá trị đã lỗi thời, vừa có khả năng tiếp biến những tinh hoa văn hoá từ các cộng đồng khác trên thế giới.Trong mối quan hệ giữa cải cách kinh tế, cải cách chính trị và cải cách văn hoá thì cải cách văn hoá đóng vai trò quan trọng nhất. Văn hoá là môi trường tinh thần, là lá phổi của đời sống. Do đó, muốn phát triển, các nước thế giới thứ ba cần phải giữ cho lá phổiđó trong sạch bằng các cuộc cải cách văn hoá thường xuyên và liên tục. Sự lạc hậu của môi trường tinh thần sẽ là vật cản đối với tiếnđộ cũng như sự thành công và triệt để của cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Nói cách khác, nếu  không được cải cách, văn hóa sẽ trở thành yếu tố níu kéo chính trị và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Cải cách văn hoá đồngbộ với cải cách kinh tế và cải cách chính trị, nhằm tạo sự bảo trợ tinh thần cho sự thành công của hai cuộc cải cách này.
Cải cách văn hoá phải được tiến hành cả trong đời sống kinh doanh lẫn đời sống chính trị bởi vì văn hoá kinh doanh và văn hoá chính trị là hai bộ phận quan trọng của văn hoá nói chung, có giá trị phổ biến tương đối và có vùng ảnh hưởng tương đối lớn đối vớiđời sống, để những tiêu chuẩn văn hoá trongđời sống kinh doanh và đời sống chính trị trở thành động lực trực tiếp của sự tiến bộ.Cải cách giáo dục ư Điểm hội tụ tính đúngđắn của các cuộc cải cáchCuộc sống nối tiếp nhau bằng các thế hệ và thế hệ đi trước chuẩn bị cho thế hệ sau bằng con đường giáo dục. Hay nói cách  khác, sứ mệnh quan trọng của giáo dục là chuẩn bị lực lượng cho tương lai. Đó có thể là việc chuẩn bị cho sự xuất hiện của lực lượng kinh tế mới, lực lượng chính trị mới hay con người mới nói chung. Tuy nhiên, yếu tố chuẩn bị lại nằm trong quá khứ. Trong mối quan hệ giữa các cuộc cải cách thì cải cách kinh tế, cải cách chính trị, cải cách văn hoá hướng vào ba mảng khác nhau của đời sống, còn cải cách giáo dục góp phần hình thành và phát triển đời sống, gắn kết sự phát triển của thế hệ trước với các thế hệ tiếp theo, tức là đảm bảo tính kế thừa và liên tục của đời sống. Chúng ta không thể ghép cải cách giáo dục vào bất kỳ cuộc cải cách nào bởi nội dung cải cách giáo dục chứa đựng nội dung của cả ba cuộc cải cách trên.Giáo dục là hành vi mang chất lượng bản năng nhất của nhân loại. Chúng ta chuẩn bị cho cải cách giáo dục bằng cả kinh nghiệm của quá khứ lẫn dự báo của tương lai. Lý do là nếu không có chất lượng quá khứ thì không có sự kế thừa lịch sử mang chất lượng tự nhiên của đời sống. Nhưng nếu đem tất cả quá khứ ra để cải cách giáo dục thì chúng ta sẽ tạo ra một lực lượng cũ hơn, còn nếu không kế thừa quá khứ thì chúng ta sẽ khôngđảm bảo được tính liên tục của đời sống. Chính vì vậy, cải cách giáo dục cũng phảiđược thực hiện đồng bộ với các cuộc cải cách còn lại. Và các cuộc cải cách còn lại của đời sống chỉ có thể được coi là thành công khi chúng hội tụ vào sự đúng đắn của cải cách giáo dục.Như vậy, tất cả các cuộc cải cách đều có mối quan hệ biện chứng với nhau và có đối tượng chung là cuộc sống, vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Mỗi cuộc cải cách tạo cơ sở và tiền đề cho các cuộc cải cách còn lại trên cơ sở hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, sự đồng bộ của các cuộc cải cách với nhau và đồng bộ bên trong mỗi cuộc cải cách đóng vai trò quyết định đến thành công của các chương trình cải cách.
 
III.    Vấn đề xây dựng hệ tiêu chuẩn cải cách
Bất kỳ chương trình cải cách nào cũng cần có những tiêu chuẩn để làm mục tiêu và để
đánh giá mức độ thành công của nó. Vì vậy, việc xây dựng hệ tiêu chuẩn của cải cách là vấn đề quan trọng và càng quan trọng hơnđối với các nước thế giới thứ ba.Tập hợp các giá trị nhận thức xã hội của mỗi quốc gia là khác nhau, do đó không thể có tiêu chuẩn cải cách chung, thống nhất cho các nướcthế giới thứ ba. Mỗi quốc gia phải tự thiết kế các chương trình cải cách phù hợp vớiđiều kiện kinh tế, chính trị ư xã hội của mình.Đây là điểm mấu chốt của mỗi chương trình cải cách bởi nếu áp đặt các tiêu chuẩn cải cách từ bên ngoài thì vô tình chúng ta đã tiêu diệt sự đa dạng về phát triển của các khu vực.Vấn đề đặt ra là, có tuyệt đối hoá tiêu chuẩn cải cách của riêng mình không? Câu trả lời chắc chắn là “Không”, bởi cải cách trong thời đại ngày nay là để hội nhập vào hệ tiêu chuẩn phổ biến về kinh tế, chính trị và văn hóa. Các tiêu chuẩn ấy tồn tại bên ngoài mỗi cộng đồng nhưng lại tồn tại trong giao  lưu giữa các cộng đồng. Các nước chậm tiến buộc phải cải cách để vươn lên trạng thái phổ biến của thế giới, nhưng cải cách ở các nước cụ thể lại mang nét đặc thù, dựa trên thực lực và điều kiện nên cần lấy các tiêu chí chung làm mục tiêu chứ không thể áp dụng máy móc các tiêu chuẩn cải cách đã có sẵn. Cải cách là quá trình dịch chuyển một cơ cấu xã hội từ trạng thái trì trệ đến một trạng thái khác tiến bộ hơn, do đó không nên đặt các tiêu chuẩn xa vời, thoả mãn ý muốn hay đòi hỏi phải xác lập một trạng thái mà xã hội khôngđược chuẩn bị.
Nếu áp đặt các tiêu chuẩn từ bên ngoài đểđánh giá thành công của một cuộc cải cách thì bản thân cuộc cải cách đó không phải là cuộc cải cách tự thân. Ngược lại, nếu chỉ “đóng cửa” để cải cách thì cuộc cải cách dễ mang tính chủ quan, duy ý chí . Rõ ràng, để xây dựng được một hệ tiêu chuẩn cải cáchđúng đắn đòi hỏi phải có công nghệ xây dựng tiêu chuẩn cải cách, tức là đòi hỏi phải xây dựng một thể chế có khả năng xác định một cách đúng đắn nhất tiêu chuẩn của các cuộc cải cách. các giá trị nhận thức của xã hội về tiêu chuẩn phát triển. Chúng ta cần phải xây dựng thể chế để tạo ra được những tiêu chuẩn có tính chất như thế. Phải khẳng định rằng, để xây dựng một thể chế hoàn chỉnh không phải là một việc dễ dàng vì vấn đề liên quan đến tiềm lực, đến kinh nghiệm, đến khả năng của mỗi quốc gia, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng thể chế dân chủ trong việc nhận thức những đòi hỏi của xã hội. Một tiến trình cải cách khi bắt đầu có thể không có một thể chế trọn vẹn nhưng ít nhất nó phải được bắtđầu từ nhận thức về tiêu chuẩn phát triển. Chúng ta cần phải biết học hỏi, tập hợp các tiêu chuẩn cải cách ở bên ngoài thành hệ tiêu chuẩn phát triển, hệ tiêu chuẩn cải cách có tính đến những đặc điểm và hoàn cảnh cụ thể của mình. Như vậy, việc “vay mượn” các tiêu chuẩn để chủ động xây dựng chương trình cải cách và phát triển có thể là lối thoát để các nước kém phát triển có thể thiết kế các chương trình cải cách của mình. Âm nhạc có bẩy nốt và năm dòng kẻ nhưng mỗi người sử dụng một cách khác. Thiên tài Moza hay Bethoven  tạo  ra bẳn sắc âm nhạc của họ chứ không phải bẩy nốt nhạc và năm dòng kẻ tạo ra, nhưng nếu không có bẩy nốt nhạc và năm dòng kẻ thì người ta không có thước đo để tư duy.Việc xác định tính đúng lúc của các chương trình cải cách cũng như tính đồng bộ của các nội dung của mỗi cuộc cải cách phụ thuộc vào sự nhạy cảm, sự sáng suốt của lực lượng lãnh đạo. ở đây, vấn đề ai sẽ là người thẩm định sự đúng đắn của các chương trìnhmới phát triển, thì nó có thể được thẩm định bằng lực lượng tiên tiến của xã hội, tức là tầng lớp trí thức. Các nhà cầm quyền mới cóđủ điều kiện để tổ chức một cách chủ động các cuộc cải cách, nhưng để tránh sai lầm chủ quan, các nhà cầm quyền cần thẩm định các chương trình cải cách thông qua cả sự phản ứng và hưởng ứng của xã hội. Xã hội phản ứng trước hết thông qua lực lượng tiên tiến của mình, do đó, lực lượng tiên tiến của xã hội, tức đội ngũ tri thức phải có nhiệm vụđi đầu trong thẩm định tính đúng đắn của các chương trình cải cách.
 
IV.     Kết luận
Cải cách kinh tế, cải cách chính trị, cải cách văn hoá và cải cách giáo dục là  bốn cuộc cải cách có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại nói chung và các nước thế giới thứ ba nói riêng. Các cuộc cải cách này liên quan mật thiết với nhau, có tác động bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Tiến hành đồng bộ các cuộc cải cách nói trên là giải pháp duy nhất nhằm nâng cao tính hiệu quả và tính triệt để của các cuộc cải cách. Tính đồng bộ của các cuộc cải cách đượcđảm bảo bởi sự sáng suốt, nhạy cảm của các nhà lãnh đạo và trình độ nhận thức của xã hội trong việc thẩm định tính đúng đắn của các cuộc cải cách. Một nền dân chủ thực sự sẽ tạo ra sự đồng thuận của xã hội trong việc nâng cao tính tính đồng bộ và chất lượng của các cuộc cải cách đồng thời thúc đẩy xã hội phát triển.