Quan điểm và nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung Luật kiểm toán nhà nước

01/05/2015

TS. NGUYỄN HỮU VẠN

Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước

Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Với bản Hiến pháp này, địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước (KTNN) và Tổng KTNN được quy định tại Điều 118 với nội dung:"1. KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; 2. Tổng KTNN là người đứng đầu KTNN, do Quốc hội bầu. Nhiệm kỳ của Tổng KTNN do luật định. Tổng KTNN chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH); 3. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của KTNN do luật định".
Việc quy định về KTNN trong Hiến pháp là sự ghi nhận về những thành tựu của KTNN trong hơn 20 năm xây dựng và phát triển; đồng thời, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với hoạt động và sự nghiệp của KTNN. Việc bổ sung thiết chế độc lập là KTNN trong Hiến pháp đã góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, phù hợp nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và phù hợp với thông lệ quốc tế. Với vị thế là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý tài chính, tài sản công, KTNN đóng vai trò quan trọng bảo đảm tính minh bạch trong quản trị quốc gia, góp phần bảo đảm tính dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Việc triển khai thi hành Hiến pháp đã đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật KTNN nhằm nâng cao tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của KTNN phù hợp theo nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến pháp là “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Luật KTNN được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. Sau hơn 09 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật KTNN đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, như: quy định về địa vị pháp lý của KTNN chưa tương xứng với vị trí, vai trò của KTNN; phạm vi kiểm toán chưa bao quát hết việc kiểm tra, kiểm soát mọi nguồn lực tài chính, tài sản công; chưa quy định đầy đủ về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động KTNN; chưa có sự tương thích về một số quy định giữa Luật KTNN với các luật liên quan, như: Luật tổ chức Quốc hội, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) ...
Xuất phát từ những yêu cầu trên đây, việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN là cần thiết nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về KTNN; đồng thời, khắc phục những tồn tại bất cập của Luật KTNN hiện hành. Trên cơ sở Nghị quyết số 20/2011/QH13, Nghị quyết số 472/NQ-UBTVQH13, KTNN đã được Quốc hội, UBTVQH giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan soạn thảo Dự án Luật KTNN (sửa đổi). Đến nay, Dự án Luật KTNN đã được gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội và dự kiến trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 9 tháng 6/2015.
Quan điểm và những nội dung chủ yếu trong việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN được thể hiện như sau:
Mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc sửa đổi Luật KTNN
Việc xây dựng Luật KTNN (sửa đổi) nhằm cụ thể hóa các quy định về KTNN trong Hiến pháp năm 2013; tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN bảo đảm thiết chế KTNN có đủ năng lực phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Quá trình sửa đổi Luật KTNN đã quán triệt các quan điểm, nguyên tắc:
Một là, thể chế hóa đầy đủ và toàn diện các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển KTNN; phát triển KTNN thành công cụ trọng yếu và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công; hỗ trợ, phục vụ đắc lực cho hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của các địa phương;
Hai là, bảo đảm tính độc lập cao đối với hoạt động KTNN, phù hợp với quy định của Hiến pháp, tương xứng vị trí, vai trò của KTNN với tư cách là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
Ba là, kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật KTNN hiện hành; sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những quy định không còn phù hợp với thực tế hoạt động KTNN; bảo đảm sự thống nhất và tương thích giữa Luật KTNN với các luật khác có liên quan trong hệ thống pháp luật của Nhà nước;
Bốn là, cụ thể hóa, làm rõ hơn phạm vi, đối tượng kiểm toán của KTNN bảo đảm bao quát đầy đủ nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công;
Năm là, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tế Các cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) về tổ chức và hoạt động của KTNN phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Những nội dung cơ bản sửa đổi, bổ sung Luật KTNN
Dự thảo Luật KTNN (sửa đổi) được dự kiến với 9 chương, 73 điều. So với Luật KTNN hiện hành, dự thảo Luật tăng 1 chương, giảm 01 điều, cụ thể: (i) Dự kiến bỏ 07 điều (Mục đích hoạt động của KTNN - Điều 3; Điều ước quốc tế - Điều 11; Địa vị pháp lý của KTNN - Điều 13; Nội dung kiểm toán báo cáo tài chính - Điều 37; Nội dung kiểm toán tuân thủ - Điều 38; Nội dung kiểm toán hoạt động - Điều 39; Kiểm toán lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Một số điều được ghép vào điều khác cho phù hợp logic); (ii) Sửa đổi, bổ sung 52 điều (trong đó bổ sung mới 11 điều) gồm các nội dung: Tiêu chuẩn bổ nhiệm ngạch kiểm toán viên, kiểm toán viên chính, kiểm toán viên cao cấp; Bãi nhiệm kiểm toán viên nhà nước; Miễn nhiệm kiểm toán viên nhà nước; Tiêu chuẩn Trưởng Đoàn kiểm toán, Phó trưởng Đoàn kiểm toán và Tổ trưởng Tổ kiểm toán; bổ sung 05 điều mới trong chương VII gồm: Quốc hội với KTNN; Chính phủ với KTNN; trách nhiệm của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân; trách nhiệm của Hội đồng nhân dân; trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân. Về nội dung, Luật KTNN tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xác định phạm vi, đối tượng kiểm toán phù hợp quy định của Hiến pháp
Quy định về phạm vi và đối tượng kiểm toán của KTNN trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa đầy đủ, chưa bao quát hết các nguồn lực tài chính, tài sản công. Căn cứ quy định của Hiến pháp, khuyến cáo của INTOSAI và từ thực tiễn hoạt động kiểm toán ở nước ta trong thời gian qua, Luật cần bổ sung quy định theo hướng ở đâu có tài chính, tài sản công thì ở đó cần phải được kiểm toán. Để làm được việc này, việc sửa đổi, bổ sung Luật KTNN cần làm rõ các vấn đề sau đây:
- Cần xác định rõ nội hàm của “tài chính, tài sản công” thuộc đối tượng kiểm toán của KTNN: Để làm rõ nội hàm của “tài chính, tài sản công” thuộc đối tượng kiểm toán của KTNN theo quy định của Hiến pháp tại Điều 118, “KTNN thực hiện kiểm toán đối với việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” trong điều kiện chưa có luật nào quy định đầy đủ về tài chính, tài sản công. Dựa trên cơ sở quy định tại Điều 53 và Điều 55 của Hiến pháp, Luật sửa đổi theo hướng chi tiết hóa giải thích 02 thuật ngữ trên tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 như sau: “Tài chính công bao gồm: NSNN; dự trữ quốc gia; các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; tài chính của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị cung cấp dịch vụ, hàng hóa công, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có sử dụng kinh phí, ngân quỹ nhà nước; phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp; các khoản nợ công.”; “Tài sản công bao gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; rừng quốc gia, danh lam thắng cảnh quốc gia, di sản quốc gia;tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tài sản công được giao cho các doanh nghiệp quản lý và sử dụng; tài sản dự trữ nhà nước, tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng; các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Luật hiện hành quy định: “Đối tượng kiểm toán của KTNN là hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng…”. Luật hiện nay quy định về đối tượng KTNN là “... hoạt động có liên quan …”. Quy định này là quá rộng, khó nhận diện đâu là hoạt động có liên quan đến toàn bộ công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, điều này dễ tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau, do đó quá trình thực hiện Luật dẫn đến thiếu thống nhất. Vì vậy, cần quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu về đối tượng KTNN theo hướng: “Đối tượng kiểm toán của KTNN là việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công của các đơn vị được kiểm toán”.
- Quy định đầy đủ các đơn vị được kiểm toán: Để kiểm toán đầy đủ việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công như quy định của Hiến pháp, đòi hỏi KTNN phải có quyền kiểm toán tất cả các cơ quan, tổ chức có quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Do đó, bên cạnh những đơn vị được kiểm toán như Điều 63 Luật hiện hành, Dự thảo bổ sung các cơ quan, tổ chức sau:
Đơn vị sự nghiệp công lập: Điều 63 Luật hiện hành quy định đơn vị được kiểm toán là đơn vị sự nghiệp được NSNN bảo đảm toàn bộ hoặc một phần kinh phí. Quy định như vậy, những đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm kinh phí hoạt động sẽ không phải đơn vị được kiểm toán, do đó KTNN không thực hiện kiểm toán đối với tài sản nhà nước đã đầu tư cho các đơn vị này. Khắc phục vấn đề này, Dự thảo thay thế đối tượng là “Đơn vị sự nghiệp được NSNN bảo đảm một phần hoặc toàn bộ kinh phí” bằng “Đơn vị sự nghiệp công lập”. Theo đó, tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập không phân biệt có bảo đảm kinh phí hoạt động hay không đều là đơn vị được kiểm toán.
Thay thế “doanh nghiệp nhà nước” bằng “doanh nghiệp có quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước. Đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống, Tổng KTNN quyết định lựa chọn mục tiêu, tiêu chí, nội dung và phương pháp kiểm toán phù hợp”. Quy định như vậy nhằm bảo đảm bao quát nhiệm vụ của KTNN đối với việc kiểm tra, kiểm soát tài sản nhà nước. Mở rộng hoạt động kiểm toán doanh nghiệp theo hướng vừa kiểm toán như hiện nay vừa kiểm toán việc quản lý và sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối. Vì thực tế có trường hợp số vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có số lượng lớn nhưng tỷ lệ cổ phần không quá 50% cổ phần của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng số vốn góp của Nhà nước trong doanh nghiệp này cũng cần được kiểm soát, đánh giá. Đặc biệt, chủ trương của Đảng, Chính phủ đang đẩy mạnh công tác cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp mà Nhà nước có vốn góp nhưng không giữ cổ phần chi phối sẽ tăng lên.
Bổ sung đối tượng là “cơ quan quản lý, sử dụng nợ công” cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ kiểm toán nợ công, phù hợp thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời, bảo đảm phát huy vai trò của KTNN trong việc kiểm toán để xem xét mức vay nợ và an toàn nợ công của quốc gia; kiến nghị các biện pháp nhằm quản lý, sử dụng nợ công có hiệu quả.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của KTNN theo Hiến pháp và khuyến cáo của INTOSAI
Ở đa số các nước trên thế giới, tính độc lập của KTNN đư­ợc quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán. Tính độc lập của KTNN thể hiện qua các nội dung được sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Sửa đổi các quy định về Tổng KTNN: Điều 118 Hiến pháp quy định: "KTNN do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Như vậy, địa vị pháp lý của KTNN được xác lập bởi Hiến pháp, điều này bảo đảm tính độc lập về tổ chức và hoạt động của KTNN. Để phù hợp với Hiến pháp, Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng:
Quy định rõ ràng về thẩm quyền bầu Tổng KTNN tại khoản 2, Điều 12 “Tổng KTNN do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của UBTVQH”. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Dự thảo bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Tổng KTNN, gồm: Báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTVQH; trình dự án luật, pháp; thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đề nghị UBTVQH bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với Phó Tổng KTNN. Dự thảo Luật bổ sung theo hướng nâng thẩm quyền cho Tổng KTNN quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm kiểm toán viên cao cấp và luật hóa các trường hợp miễn nhiệm kiểm toán viên nhà nước.
Về nhiệm kỳ của Tổng KTNN: Giữ nguyên quy định về nhiệm kỳ của Tổng KTNNnhư quy định của Luật KTNN hiện hành “Nhiệm kỳ của Tổng KTNN là bảy năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ liên tục” là hoàn toàn phù hợp bởi các lý do:
Một là, bảo đảm phù hợp với vị trí, vai trò của KTNN là thiết chế Hiến định độc lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trong đó Tổng KTNN cần phải được độc lập thông qua nhiệm kỳ 7 năm, được bầu lại nhưng không quá 2 nhiệm kỳ để bảo đảm tính liên tục, “gối đầu” trong việc đánh giá, xác nhận báo cáo quyết toán NSNN theo quy định của pháp luật về NSNN.
Hai là, Luật KTNN hiện hành tại Điều 17 quy định “nhiệm kỳ Tổng KTNN là 7 năm, được bầu lại nhưng không quá 2 nhiệm kỳ”. Đây là điểm tiến bộ của Luật KTNN, quá trình thi hành Luật gần 10 năm nay cho thấy quy định này vận hành thuận lợi, không phát sinh vướng mắc, bất cập.
Ba là, vai trò độc lập của Tổng KTNN không chỉ có ý nghĩa ở phạm vi quốc gia mà trên thế giới, yếu tố độc lập của KTNN (SAI) được đặc biệt nhấn mạnh. Ở hầu hết các nước, KTNN với tư cách là cơ quan độc lập, Luật KTNN các nước đã quy định Quốc hội bầu Tổng KTNN, trong đó thì một vài nước quy định Quốc hội thông qua với đa số phiếu và Tổng thống hoặc Nhà Vua bổ nhiệm. Các nước quy định tính độc lập của Tổng KTNN không phụ thuộc vào nhiệm kỳ của Quốc hội (có nước Tổng KTNN bổ nhiệm suốt đời, có nước 12 năm, có nước 09 năm).
Quy định về nhiệm kỳ của Tổng KTNN là 7 năm hiện được INTOSAI, ASEANSAI đánh giá cao. Do vậy, để duy trì và phát huy KTNN, đề nghị giữ nguyên theo quy định của Luật hiện hành, nhất là trong điều kiện đến năm 2018, Tổng KTNN Việt Nam giữ vai trò là Chủ tịch ASEANSAI.
Như vậy, với những nội dung quy định về nhiệm kỳ của Tổng KTNN, cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi miễn chức danh Tổng KTNN; tự chủ trong công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch kiểm toán viên nêu trên đã bảo đảm Luật KTNN Việt Nam đã thực sự tôn trọng và quán triệt một cách đầy đủ Hiến pháp và nguyên tắc đầu tiên về tính độc lập của SAI.
- Sửa đổi một số quy định liên quan đến hoạt động kiểm toán:
Trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán: Tính độc lập được thể hiện thông qua việc KTNN tự chủ động xây dựng kế hoạch kiểm toán. Đối với nước ta, để phù hợp với quy định của Hiến pháp tại Điều 118 “Tổng KTNN chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp chịu trách nhiệm và báo cáo trước UBTVQH” và các quy định của Luật KTNN về căn cứ quyết định kiểm toán năm, Luật sửa đổi theo hướng “Quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện”. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Hiến pháp và đặc biệt bảo đảm tính độc lập của KTNN cũng như đáp ứng yêu cầu giám sát tối cao của Quốc hội.
Bổ sung quy định về Tổ kiểm toán: Thực tiễn hoạt động kiểm toán cho thấy vai trò của Tổ kiểm toán rất quan trọng. Hầu hết trong các Đoàn kiểm toán đều phải thành lập các Tổ kiểm toán để tiến hành các nhiệm vụ kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán chi tiết tại các đơn vị trực thuộc đơn vị được kiểm toán, đây là đầu mối trực tiếp thu thập bằng chứng kiểm toán. Các quy định về Tổ kiểm toán tạo cơ sở pháp lý cho Tổ kiểm toán hoạt động và để KTNN kiểm soát hoạt động của Tổ kiểm toán. Bên cạnh đó, một vài cuộc kiểm toán có quy mô nhỏ nên KTNN không thành lập Tổ kiểm toán, do đódự thảo Luật quy định bổ sung quy định “Tùy thuộc vào quy mô cuộc kiểm toán, Đoàn kiểm toán có Tổ kiểm toán hoặc không có Tổ kiểm toán”.
Sửa đổi quy định về thời hạn kiểm toán: Nghiên cứu kinh nghiệm thế giới và thực tiễn hoạt động KTNN cho thấy, quy mô, nội dung của các cuộc kiểm toán thường khác nhau. Có cuộc kiểm toán quy mô nhỏ chỉ cần số lượng ít kiểm toán viên làm việc trong thời gian ngắn, nhưng có những cuộc kiểm toán quy mô lớn, nội dung phức tạp cần nhiều kiểm toán viên và phải thực hiện trong thời gian dài. Đối với các cuộc kiểm toán chuyên đề như trái phiếu Chính phủ, dạy nghề, việc làm nông thôn, hỗ trợ nhà ở ... hay đối với các cuộc kiểm toán hoạt động thì thời gian thường kéo dài và không thể ấn định trước. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới như ở Canada, Anh, Mỹ, Na-uy, ... cho thấy thời hạn kiểm toán thông thường kéo dài hàng năm. Do vậy, việc quy định chung về thời hạn cho một cuộc kiểm toán áp dụng cho cả kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động là không phù hợp và khó khả thi.
Chính vì vậy, để bảo đảm việc quyết định thời hạn cho một cuộc kiểm toán được chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn kiểm toán, về thời hạn kiểm toán Luật sửa đổi theo hướng:
“Thời hạn của cuộc kiểm toán được tính từ ngày công bố quyết định kiểm toán đến khi kết thúc việc kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán. Thời hạn của một cuộc kiểm toán không quá sáu mươi ngày. Trường hợp phức tạp, cần thiết kéo dài thời hạn kiểm toán thì Tổng KTNN quyết định gia hạn một lần, thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày.
Đối với cuộc kiểm toán để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công có quy mô toàn quốc, Tổng KTNN quyết định cụ thể về thời hạn kiểm toán”.
Sửa đổi quy định về báo cáo kiểm toán: Báo cáo kiểm toán của KTNN là văn bản do KTNN lập và công bố để đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị về những nội dung đã kiểm toán. Vị trí, vai trò của KTNN được thể hiện thông qua chất lượng và giá trị của báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán được xây dựng theo hướng chỉ có một loại báo cáo, được gọi là “Báo cáo kiểm toán”: Báo cáo kiểm toán của KTNN có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với đơn vị được kiểm toán về các sai phạm trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết khiếu nại đối với hoạt động kiểm toán: Trong thực tiễn hoạt động kiểm toán, cần thiết phải có quy định để bảo đảm quyền được khiếu nại của đơn vị được kiểm toán, đồng thời quy định trách nhiệm giải quyết của KTNN cũng như trình tự giải quyết. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù trong hoạt động KTNN nên giải quyết khiếu nại trong hoạt động KTNN cần quy định trình tự đặc thù (không nên quy định việc giải quyết theo trình tự của Luật Khiếu nại), vì các lý do:
Một là, dựa trên các căn cứ pháp lý gồm Hiến pháp và các luật liên quan:
Căn cứ vào Hiến pháp thì KTNN là cơ quan Hiến định, nguyên tắc hoạt động của KTNN là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (KTNN không phải là cơ quan hành chính nhà nước). Do vậy, báo cáo kiểm toán không phải là quyết định hành chính, hành vi của thành viên Đoàn kiểm toán không phải là hành vi hành chính nên quy trình, thủ tục, thẩm quyền giải quyết cần có những đặc thù nhất định.
Căn cứ Luật Tố tụng hành chính: Theo quy định tại Điều 1, Điều 2 thì KTNN không thuộc đối tượng điều chỉnh, phạm vi áp dụng của Luật; theo quy định tại Điều 28 thì Báo cáo kiểm toán, hành vi của thành viên Đoàn kiểm toán không phải là đối tượng khiếu kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Tại Điều 3 Luật Khiếu nại quy định KTNN và một số cơ quan khác không phải là cơ quan hành chính nhà nước quy định việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong cơ quan mình;“trường hợp luật khác có quy định khác về khiếu nại và giải quyết khiếu nại thì áp dụng theo quy định của luật đó”. Do vậy, việc quy định trình tự riêng (khác với quy định của Luật Khiếu nại) là hoàn toàn phù hợp và đồng bộ.
Hai là, xuất phát từ thực tiễn hoạt động KTNN và các hoạt động liên quan
Thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân thời gian qua cho thấy, trong một số trường hợp giải quyết các vụ án liên quan đến các lĩnh vực chuyên sâu thuộc hoạt động của KTNN, Tòa án thường phải trưng cầu” KTNN giám định để làm cơ sở giải quyết các vụ án.
Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức của KTNN là tập trung thống nhất, không phân cấp hành chính nên quy trình giải quyết cần được quy định phù hợp với tổ chức của KTNN.
Chế định về Hội đồng kiểm toán chặt chẽ và bảo đảm kết quả kiểm toán được khách quan nên trong trường hợp cần xem xét lại, Hội đồng kiểm toán sẽ giúp Tổng KTNN thẩm định lại báo cáo kiểm toán theo khiếu nại của đơn vị được kiểm toán và giúp Tổng KTNN xử lý các khiếu nại về báo cáo kiểm toán.
Ba là, theo khuyến cáo của Tuyên bố Mê-hi-cô tại Nguyên tắc số 6: Cơ quan kiểm toán được tự đưa ra các ý kiến và kiến nghị trong báo cáo của mình có cân nhắc các quan điểm của đơn vị được kiểm toán nếu thấy phù hợp. Điều đó cho thấy trường hợp nếu có kiến nghị của đơn vị được kiểm toán thì Tổng KTNN là người xem xét, giải quyết mà không cần khởi kiện ra Tòa án theo quy trình của Luật Khiếu nại.
Thứ ba, chuẩn hóa các quy định về các tiêu chuẩn, chức danh của Đoàn kiểm toán, kiểm toán viên nhà nước nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm toán
- Sửa đổi các quy định về kiểm toán trưởng, phó kiểm toán trưởng:
Luật KTNN được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định chi tiết hơn về kiểm toán trưởng, phó kiểm toán trưởng. Đặc biệt, để tăng cường chất lượng công tác kiểm toán thông qua công tác quản lý, điều hành hoạt động các KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực, Luật KTNN bổ sung theo hướng quy định về tiêu chuẩn kiểm toán trưởng, phó kiểm toán trưởng phải là kiểm toán viên chính trở lên. Đối với nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của kiểm toán trưởng, phó kiểm toán trưởng sẽ do Tổng KTNN quy định.
- Sửa đổi các quy định về trưởng đoàn, phó trưởng đoàn kiểm toán:Để có cơ sở pháp lý cho việc lựa chọn, bố trí nhân sự kiểm toán bảo đảm chất lượng mỗi cuộc kiểm toán, Luật hóa các quy định về tiêu chuẩn trưởng đoàn, phó trưởng đoàn kiểm toán và tổ trưởng tổ kiểm toán theo hướng:
Trưởng đoàn kiểm toán, phó trưởng đoàn kiểm toán phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo và kinh nghiệm công tác phù hợp với nhiệm vụ được giao; đồng thời phải là kiểm toán viên chính giữ chức vụ từ phó trưởng phòng trở lên hoặc kiểm toán viên giữ chức vụ từ trưởng phòng trở lên.
Đối với tổ trưởng tổ kiểm toán phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo và kinh nghiệm công tác phù hợp với nhiệm vụ được giao; đồng thời phải là kiểm toán viên chính hoặc kiểm toán viên giữ chức vụ từ phó trưởng phòng trở lên.
- Sửa đổi các quy định về kiểm toán viên nhà nước:
Để khắc phục bất cập của Luật KTNN hiện hành và phù hợp với Luật Cán, bộ công chức, Luật sửa đổi theo hướng không quy định kiểm toán viêndự bị; đồng thời, quy định Tổng KTNN bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch kiểm toán viên nhà nước để đảm bảo tính độc lập và chủ động của KTNN.
Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Nghị quyết số 1002/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 03/3/2006 của UBTVQH quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và tiêu chuẩn cụ thể của từng ngạch kiểm toán viên nhà nước, Luật bổ sung và quy định chi tiết tiêu chuẩn bổ nhiệm các ngạch kiểm toán viên nhà nước (kiểm toán viên, kiểm toán viên chính, kiểm toán viên cao cấp); đồng thời, quy định các trường hợp miễn nhiệm các ngạch kiểm toán viên nhà nước nhằm đảm bảo chất lượng và tính độc lập của kiểm toán viênnhà nước trong thực hiện nhiệm vụ kiểm toán./.
 
 
*TS. Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán Nhà nước
 
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9(289), tháng 5/2015)