Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử

01/04/2015

ThS. PHAM HỒNG PHONG

Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Chánh án TAND tỉnh Hậu Giang

1. Khái niệm và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng ở Việt Nam
1.1. Khái niệm tranh tụng
Tố tụng tranh tụng, thoạt tiên là một thủ tục được áp dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó du nhập vào La Mã với tên gọi là “thủ tục hỏi đáp liên tục”. “Hỏi đáp liên tục” là một quy trình tố tụng bao gồm từ khi vụ án được toà án thụ lý đến khi kết thúc xét xử. Nguồn gốc ra đời của tranh tụng là từ thực tiễn giải quyết tranh chấp của xã hội du mục, tố tụng tranh tụng thay cho việc dùng sức mạnh để tranh giành quyền lợi, thay vì sử dụng vũ lực, các bên sử dụng sự biện hộ, biện lý, trạng sư, luật sư để đưa ra lý lẽ nhằm giành quyền lợi cho mình. Trong tranh tụng, các bên đương sự dựa vào sức mình là chính, quan tòa chỉ được coi như một trọng tài để phân định đúng sai và được hưởng thù lao từ chính các bên tranh chấp.
Thuật ngữ tranh tụng cũng gắn liền với hai truyền thống pháp luật cơ bản của thế giới, thủ tục tố tụng nhấn mạnh đến vai trò của các bên trong việc chứng minh các tình tiết sự kiện trong vụ việc dân sự (thủ tục tố tụng tranh tụng) và thủ tục tố tụng nhấn mạnh vai trò của thẩm phán trong việc chứng minh vụ việc (thủ tục tố tụng thẩm vấn) tương ứng với hai hệ thống pháp luật được xem là chủ yếu, đó là hệ thống pháp luật án lệ (common law) và hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (continental law). Tuy nhiên, ở cả hai hệ thống pháp luật này càng ngày có xu hướng xích lại gần nhau và dần chuyển sang xu hướng tương đồng để hoà nhập trong tương lai gần.
Tranh tụng là hoạt động tranh luận mang yếu tố pháp lý - một yếu tố để đảm bảo tính khách quan, công bằng trong hoạt động thực hiện quyền tư pháp của các nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn còn có sự nhầm lẫn giữa tranh tụngtranh luận. Khái niệm về tranh luận có nội hàm rộng hơn, nó bao gồm tất cả các hoạt động đối đáp (mang tính pháp lý và không pháp lý) của các bên nhằm đưa ra lý lẽ thuyết phục đối phương phải chấp nhận lý lẽ của mình. Còn tranh tụng chỉ ở một phạm vi hẹp, chỉ xuất hiện trong hoạt động tố tụng, là sự kiện cáo dẫn đến sự tranh luận giữa các bên đối lập tại tòa án và bản chất của nó chính là các quan hệ pháp luật. Tranh tụng cũng có thể được hiểu là sự tranh chấp (theo nghĩa rộng) thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án và để giải quyết các tranh chấp đó, tòa án tạo điều kiện cho các bên tự mình thu thập chứng cứ, chứng minh để thuyết phục bên đối lập phải chấp nhận lý lẽ của mình là đúng và được tòa án ghi nhận dựa trên các quy định của pháp luật.
Tranh tụng là phương tiện để các bên trong tranh chấp tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình dựa trên các quy định của pháp luật và chứng cứ, chứng minh. Quan tòa trong thủ tục tranh tụng chỉ là trọng tài phân xử dựa trên các quy định của pháp luật và các chứng cứ, lý lẽ mà các bên đưa ra. Việc ghi nhận thủ tục tranh tụng trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng của một quốc gia chính là phương thức hữu hiệu để đảm bảo thực hiện tốt nhất quyền tư pháp của quốc gia đó, đồng thời đảm bảo niềm tin của người dân vào pháp luật, vào công lý.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng ở Việt Nam
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, chất lượng công tác tư pháp nhìn chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, chưa thể hiện hết quyền lực của Nhà nước mà vẫn còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cải cách tư pháp ở Việt Nam, Đảng ta đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đã định hướng “…công tố tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan… việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ “cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, tiếp tục định hướng cho hoạt động tranh tụng, đó là: “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp…”.
Tranh tụng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện quyền tư pháp. Tranh tụng không chỉ là một phương thức để tìm ra chân lý, mà theo Hiến pháp năm 2013, nó còn có nghĩa là công cụ bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong một nhà nước pháp quyền, là cách thức để nâng cao nhận thức, tạo ra một môi trường dân chủ, bình đẳng trong các quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền thực hiện các hành vi tố tụng một cách nghiêm túc, đúng pháp luật, qua đó làm giảm thiểu các vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi tiến hành một quy trình tố tụng tại tòa án. Với vai trò đặc biệt như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân. Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Nguyên tắc này là cần thiết đối với hoạt động của tòa án, đặc biệt là khi lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tòa án được ghi nhận là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Do đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của mình, hơn ai hết, tòa án phải là người thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc về tranh tụng mà Hiến pháp đã quy định. Theo nguyên tắc của tranh tụng, phiên tòa sẽ được tổ chức sao cho các bên tham gia phiên tòa có được vị trí tương đương nhau, quyền phát biểu, tranh luận, đưa ra chứng cứ, thời gian dành cho mỗi bên cũng tương đương nhau, các chủ thể tham gia tố tụng được tôn trọng như nhau... Tòa án - hay cụ thể hơn là các thẩm phán - sẽ là một người trọng tài thực thụ để đánh giá những chứng cứ, ý kiến, quan điểm mà các bên thu thập được theo một trình tự tố tụng, trên cơ sở đó, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án để đưa ra những phán quyết khách quan nhất, tương thích nhất với các quy định của pháp luật. Như vậy, tranh tụng trong xét xử góp phần rất quan trọng để tòa án đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trang oan sai, bảo đảm tòa án thực sự là nơi công bằng và công lý được thực thi.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tư pháp của hầu hết các quốc gia dân chủ và pháp quyền. Đó là một tiêu chí quan trọng để đánh giá tính dân chủ và pháp quyền của một quốc gia. Chính vì thế, các văn kiện của Đảng về cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 đều ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một bộ phận quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung và hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân nói riêng.
2. Thực trạng về tranh tụng trong hoạt động xét xử ở nước ta
Các quan điểm về hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng là một bước đột phá của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng một nền tư pháp hiện đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa vẫn còn những hạn chế, tồn tại từ quy định của pháp luật đến vai trò, trách nhiệm của thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự với tư cách là những chủ thể quan trọng nhất trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tham gia tố tụng. Có thể khái quát những hạn chế, tồn tại đó như sau:
2.1. Về góc độ pháp luật
Các quy trình tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính tuy đã có nhiều nội dung tiến bộ nhằm tăng cường hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là một vấn đề mới so với truyền thống pháp luật hỏi đáp của nước ta trước đây, nên về mặt lý luận, vẫn còn nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau, hệ thống các quy định pháp luật còn hạn chế, chưa thể hiện tính đồng bộ, thống nhất cao mà còn nhiều mâu thuẫn, chưa phân định rõ ràng giữa thủ tục tranh tụng và thủ tục hỏi đáp trong các phiên tòa hình sự, dân sự, hành chính. Pháp luật tố tụng quy định nhiều về thủ tục hỏi đáp tại phiên tòa, đặc biệt là vai trò xét hỏi của hội đồng xét xử, kiểm sát viên, và thông qua thủ tục xét hỏi, các nội dung của vụ án cũng đã được làm rõ tương đối, nên phần thủ tục tranh luận tại phiên tòa trở nên tẻ nhạt, ảnh hưởng đến vai trò, trách nhiệm thực hiện của các chủ thể tham gia tranh tụng tại phiên tòa mà đặc biệt là thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư.
Trong tố tụng hình sự, quy trình điều tra, thu thập chứng cứ, chứng minh hành vi phạm tội của vụ án hình sự chỉ dành cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Còn đối với người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự thì hoàn toàn không có quy định nào về trình tự để thu thập chứng cứ và xác lập chứng cứ hợp pháp, mà chủ yếu chỉ là hoạt động đánh giá chứng cứ, chứng minh đối với hồ sơ vụ án đã được xác lập. Chính sự “chênh vênh” trong các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đã làm cho tranh tụng không còn mang bản chất của tranh tụng - người tham gia tố tụng đưa ra lý lẽ, tranh luận - mà nặng về tính áp đặt của các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến một thực tế là còn có sự oan sai, bỏ lọt tội phạm. Sự chưa đầy đủ và thiết thực của các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến thủ tục tranh tụng dẫn đến sự tranh tụng giữa công tố và người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ mang tính hình thức, thủ tục, việc đưa ra các dẫn chứng, các lập luận diễn ra rất mờ nhạt. Những chứng cứ, tài liệu, đồ vật hoặc người làm chứng do người bào chữa đưa ra cũng chỉ được xem xét có giới hạn. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không tham gia đối đáp tranh luận hoặc tranh luận khá hạn chế. Đối với những vụ án có luật sư chỉ định thì việc tranh tụng giữa luật sư và kiểm sát viên chỉ mang tính chất hình thức, chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm của các bên nhằm bảo vệ công bằng, công lý thực sự. Vai trò của hội đồng xét xử theo luật tố tụng hình sự cũng mang tính áp đặt khi điều khiển các phiên tòa tranh tụng, đặc biệt vấn đề triệu tập nhân chứng và sử dụng nhân chứng tại phiên tòa.
Về tố tụng dân sự, nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ thu thập chứng cứ chứng minh là một yếu tố quan trọng để hình thành nên quá trình tranh tụng tại tòa án của một vụ án dân sự cụ thể. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành còn có các quy định đan xen giữa nghĩa vụ chứng minh của đương sự và trách nhiệm giải quyết vụ án của tòa án. Do vậy, rất nhiều bản án của tòa án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy chỉ vì tòa án chưa làm hết trách nhiệm thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án được toàn diện, điều này vô hình chung làm cho tòa án trở thành chủ thể chính trong quá trình chứng minh vụ án, còn đương sự chỉ là người thực hiện theo yêu cầu thu thập chứng cứ của tòa án. Vì thế, chất lượng tranh tụng tại tòa án chỉ mang tính thủ tục, chưa đảm bảo được bản chất thực sự của việc tranh tụng tại phiên tòa dân sự.
 Đối với thủ tục tố tụng hành chính, những nguyên tắc về thu thập chứng cứ cũng tương tự như các thủ tục tố tụng dân sự, chưa ghi nhận nguyên tắc tranh tụng, chưa làm rõ trách nhiệm thu thập chứng cứ của tòa án và nghĩa vụ thu thập chứng cứ của đương sự, nên hầu như tòa án là chủ thể chính để thu thập chứng cứ. Đặc biệt, tại Điều 12 Luật Tố tụng hành chính quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, tòa án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án”. Đây là một quy định thật sự có ý nghĩa để các bên có thể tự thỏa thuận hoặc đưa ra định hướng tranh luận với nhau. Tuy nhiên, Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không đề cập đến điều kiện, thủ tục và trình tự tiến hành hoạt động đối thoại, hay nêu rõ kết quả của hoạt động đối thoại có giá trị như thế nào trong việc giải quyết vụ án hành chính.
2.2. Trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền
Hiện chưa có những hoạt động cụ thể, quyết liệt của các cơ quan có thẩm quyền nhằm xây dựng một bộ thủ tục tranh tụng hoàn chỉnh. Chưa tổ chức được những phiên tòa mang tính tranh tụng thật sự để từ đó đối chiếu, rút kinh nghiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Cách tổ chức, sắp xếp vị trí của từng chủ thể trong phòng (hoặc hội trường) xét xử làm suy giảm vai trò và vị thế của các chủ thể khi tiến hành tố tụng tranh tụng tại tòa. Đặc biệt, trong phiên tòa hình sự, kiểm sát viên được ngồi ngang cấp với hội đồng xét xử, làm nổi bật sự chênh lệnh về vị thế của kiểm sát viên so với vị thế tranh tụng của người bào chữa và luật sư. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý tranh tụng của bị cáo, đương sự và giới luật sư.
2.3. Về kinh nghiệm và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải là những người được trang bị đầy đủ về kiến thức và kỹ năng cho các phiên tòa tranh tụng theo định hướng cải cách tư pháp, nhưng do chưa có kinh nghiệm thực tiễn về tranh tụng nên vẫn còn nhiều vấn đề bất cập khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể khi tham gia vào hoạt động tố tụng. Thói quen và kinh nghiệm giải quyết vụ án theo một quy trình mang tính thẩm vấn trước đây vẫn còn ảnh hưởng đến định hướng giải quyết vụ án và là lối mòn tư duy của người tiến hành tố tụng. Việc nêu cao tinh thần trách nhiệm, thượng tôn công lý, những nguyên tắc nghề nghiệp bị vi phạm nghiêm trọng cũng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư khi tổ chức các phiên tòa mang bản chất tranh tụng.
Đối với thẩm phán, họ còn chưa thể hiện đầy đủ và đúng vai trò của một trọng tài. Tại nhiều phiên tòa, thẩm phán chỉ thực hiện trách nhiệm như một chủ thể cao nhất trong phiên xét xử là ra lệnh. Nhiều thẩm phán chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án để giải quyết là chính, còn sự có mặt của người làm chứng, tài liệu, đồ vật, ý kiến của những người được triệu tập đến phiên tòa chỉ là một thủ tục để hoàn thiện hồ sơ vụ án và đúng trình tự theo luật định chứ chưa thực sự quan tâm đúng mức đến tranh tụng và giá trị của hoạt động tranh tụng khi đưa ra các phán quyết cuối cùng. Mặc khác, với số lượng án phải xét xử rất lớn nên thẩm phán cũng không chăm chút kỹ lưỡng cho từng vụ án và dành đủ thời gian giải quyết vụ án. Một vụ án có thể diễn ra rất nhanh chóng do sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa và sự rút ngắn thời gian đã làm cho chất lượng phát biểu tranh luận tại các phiên tòa chưa thể hiện được đầy đủ các lý lẽ mà các bên muốn hướng đến.
Các kiểm sát viên, người thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự tại tòa án, cũng còn thiếu tinh thần, trách nhiệm khi tham gia vào thủ tục tranh luận tại tòa. Nhiều kiểm sát viên chưa chuẩn bị hồ sơ và kiến thức liên quan đến nội dung vụ án nên rất nhiều trường hợp, kiểm sát viên khá lúng túng trước những đòi hỏi, yêu cầu và lý lẽ của các bên tham gia đối đáp, tranh luận với kiểm sát viên. Thực tế, có nhiều trường hợp kiểm sát viên không nắm vững quy định của pháp luật nên phát biểu đưa ra luận cứ pháp lý chứng minh còn sai lệnh, chưa đúng hoặc chưa biết được quy định pháp luật mà bên đối đáp dẫn chứng nên tìm cách lẩn tránh phần đối đáp của bên bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Các luật sư tham gia vụ án với tư cách là người bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, cũng còn nhiều hạn chế. Có thể nói, luật sư là một phần không thể thiếu của các phiên tòa tranh tụng, chính luật sư là người am hiểu pháp luật nên khả năng tranh tụng đối đáp với các quan điểm của viện kiểm sát, của bên đối lập hoặc đối với hội đồng xét xử sẽ tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên, rất nhiều luật sư hiện nay vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm đối đáp, tranh luận trực tiếp, dẫn đến sự tẻ nhạt và không đi vào trọng tâm của vấn đề khi tham gia các phiên tòa. Đặc biệt, trong các phiên tòa mời luật sư chỉ định thì hầu như vai trò của luật sư chỉ là để đảm bảo không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Quy trình đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề đối với luật sư là khá đơn giản, nên vẫn tồn tại những vị luật sư thiếu kiến thức về cả luật hình thức và luật nội dung, không hiểu rõ quy trình tố tụng, thiếu kỹ năng nghề nghiệp. Các yếu tố này đã làm giảm đi uy tín của luật sư và lòng tin của khách hàng vào luật sư khi được đề nghị tham gia vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ cũng suy giảm.
Đối với bị can, bị cáo hoặc đương sự trong các vụ án, họ vẫn còn rất hạn chế với việc tiếp cận công lý, đặc biệt là người dân vùng sâu, vùng xa, kiến thức về tranh tụng là rất thấp. Nhiều đương sự có rất nhiều chứng cứ có thể chứng minh để đảm bảo quyền lợi cho mình nhưng do thiếu hiểu biết nên không xuất trình chứng cứ trước tòa án để làm căn cứ hoặc bởi sự hạn chế của thủ tục xét xử vụ án tại tòa (chỉ đưa ra quan điểm giải quyết vụ án trong phần tranh luận) nên nhiều trường hợp ở phần xét hỏi thì trình bày rất nhiều, nhiều đến mức chủ tọa phải cắt lời để dành cho thủ tục tranh tụng, nhưng khi bước vào phần thủ tục tranh luận tại phiên tòa họ lại không có khả năng để lập luận trước tòa án. Việc đương sự không có mặt theo giấy triệu tập của tòa án cũng là một nguyên nhân làm giảm đi chất lượng tranh tụng.  
3. Hai nhóm giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tranh tụng tại tòa án
3.1. Giải pháp pháp lý
Yếu tố pháp lý có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành một thủ tục tố tụng tranh tụng tại tòa án, nhưng chính những rào cản về pháp lý đã làm cho các chủ thể tiến hành tố tụng trở nên lúng túng khi thực hiện các hoạt động tranh tụng. Việc đổi mới tư duy lập pháp dựa trên những định hướng cải cách tư pháp theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013 là thực sự cần thiết. Theo đó, cần phải sửa đổi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính cho phù hợp với một quy trình tranh tụng. Cụ thể, cần phải thể hiện được các nội dung sau:
Thứ nhất, phải quy định tranh tụng là nguyên tắc cơ bản trong các thủ tục tố tụng, điều này phù hợp với định hướng cải cách tư pháp của Đảng và quy định của Hiến pháp năm 2013. Quy định nguyên tắc cơ bản là tranh tụng không đồng nghĩa với việc chúng ta khẳng định chuyển đổi 100% các thủ tục tố tụng sang tố tụng tranh tụng, mà ở đây là có sự kết hợp giữa tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. Trong đó, tố tụng tranh tụng là yếu tố chủ đạo để giải quyết vụ án, còn phần thẩm vấn của tòa án chỉ có tác dụng thẩm định, khẳng định những yếu tố tranh tụng là khách quan, hợp pháp để có những phán quyết đúng với quy định pháp luật.
Thứ hai,cần thiết phải quy định, tòa án không được tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ của các bên. Điều này đồng nghĩa với việc ghi nhận tòa án là một người trọng tài thực sự khi tham gia giải quyết các vụ án, tòa án chỉ đưa ra các phán quyết dựa trên kết quả thu thập, cung cấp, đánh giá chứng cứ, chứng minh và đưa ra các lý lẽ tại phiên tòa của các bên trong một vụ án. Đối với vụ án hình sự là giữa viện kiểm sát và người bị buộc tội, đối với vụ án dân sự là giữa nguyên đơn và bị đơn, đối với vụ án hành chính là người khởi kiện và người bị kiện. Quy định phải được nghiên cứu tỉ mỉ để đảm bảo tòa án không tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ của các bên và tòa án không có nghĩa vụ chứng minh bị cáo có tội hay không có tội hoặc bên đương sự nào đúng hay sai, mà trong trường hợp thực sự cần thiết thì tòa án sẽ hỗ trợ các bên thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ, chứng minh cho lý lẽ của mình là đúng, đặc biệt là bên yếu thế trong vụ án. Do đó, các bản án của Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các tòa án cấp thấp hơn phải có nghĩa vụ chứng minh vụ án được khách quan, toàn diện cần phải loại bỏ để tránh những áp lực về thu thập chứng cứ và chứng minh cho các thẩm phán, đồng thời thúc đẩy nghĩa vụ thu thập chứng cứ, chứng minh của đương sự.
Thứ ba, trách nhiệm thu thập chứng cứ của các bên là một trong những yếu tố quyết định đến quy trình tranh tụng trực tiếp tại tòa. Cần phải thể hiện vai trò chủ động của các bên trong hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh cho lý lẽ của mình là đúng. Do đó, tố tụng hình sự cần phải ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội và viện kiểm sát với vai trò và trách nhiệm của mình cần phải có nghĩa vụ thu thập chứng cứ và chứng minh cho việc buộc tội của mình tại phiên tòa. Bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vô tội chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh hành vi của mình trước tòa án. Đối với tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, cần phải quy định nghĩa vụ của các bên trong quá trình thu thập chứng cứ. Các bên không thu thập chứng cứ sẽ phải chịu trách nhiệm về hậu quả pháp lý của hành vi không thực hiện hoạt động thu thập, Tòa án nhân dân tối cao cần đưa ra điều kiện để hạn chế việc xem xét những bản án, quyết định của tòa án cấp thấp với lý do xuất phát từ việc đương sự không thực hiện nghĩa vụ thu thập chứng cứ của mình.
Thứ tư, luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là những người thể hiện cao nhất vai trò của tranh tụng. Do đó, việc quy định luật sư được tiếp cận vụ án một cách sớm nhất để kịp thời phản biện đối với những hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là cần thiết. Đồng thời, cũng nên quy định quy trình thu thập và công nhận chứng cứ của luật sư và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự để đảm bảo tính công bằng, dân chủ, khách quan.
Thứ năm, về cách thức tổ chức phiên tòa và diễn biến tại phiên tòa: Hiện nay, việc bố trí vị trí chỗ ngồi của những người tham dự phiên tòa trong phòng xử án cũng làm giảm tính chất tranh tụng tại tòa án. Việc sắp xếp lại vị trí của các thành viên trong hội đồng xét xử, thư ký, kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác có ý nghĩa quyết định đến chất lượng của một phiên tranh tụng trực tiếp tại tòa án. Phải đảm bảo cho hội đồng xét xử ở vị trí cao nhất và các bên đối lập phải ở những vị trí ngang bằng và đối diện nhau. Bên cạnh đó, thủ tục tiến hành một phiên tòa cũng phải cải cách theo hướng tranh tụng vì thực tế chúng ta quá nặng về phần thủ tục xét hỏi. Do vậy, cần phải bố trí đối với phiên tòa hình sự thì sau phần thủ tục khai mạc phiên tòa và thủ tục mở đầu phiên tòa, thì cần tiến hành ngay đến thủ tục đưa ra quan điểm tranh luận của viện kiểm sát và thủ tục tranh luận của các bên liên quan. Sau khi các bên đã định hướng được quan điểm tranh luận của mình, sẽ bước vào giai đoạn xét hỏi để làm rõ định hướng tranh luận và sau đó sẽ quay lại phần tranh luận đến khi hội đồng xét xử có đủ chứng cứ để đưa ra phán quyết. Đối với phiên tòa hành chính và dân sự cũng tương tự, người khởi kiện hoặc người yêu cầu phải đưa ra quan điểm tranh luận trước khi bước vào phần thủ tục xét hỏi.
Thứ sáu,ngoài các quy định trên, cần phải có những quy định bổ trợ khác như các quy định về thu thập chứng cứ của đương sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trách nhiệm pháp lý của chủ thể cung cấp chứng cứ, trách nhiệm pháp lý của những người được triệu tập đến phiên tòa, sự hỗ trợ pháp lý miễn phí đối với những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế…
3.2. Giải pháp về con người
Con người là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của tất cả các hoạt động xã hội. Do đó, con người sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của các hoạt động tranh tụng tại tòa án. Đầu tư cho yếu tố con người phải đầu tư cả về nội dung bên trong và những giá trị vật chất bên ngoài.
Những yếu tố bên trong bao gồm nâng cao nhận thức và sự hiểu biết pháp luật của tất cả các chủ thể khi tham gia vào quy trình tố tụng. Đối với các chủ thể tiến hành tố tụng, bên cạnh việc nâng cao kiến thức chuyên môn, kiến thức nghề nghiệp và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp thì họ thực sự cần phải có tinh thần trách nhiệm, có ý thức bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải có sự chọn lọc từ khâu đầu vào của các cơ quan tiến hành tố tụng và phải nghiêm khắc loại bỏ những đối tượng làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của công lý, có những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Quá trình đào tạo của các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp cũng phải được đổi mới theo hướng nâng cao khả năng hội nhập với thế giới và khả năng tiếp cận, xử lý các tình huống thực tế. Cần loại bỏ những phương pháp đào tạo nặng về tính lý luận, xa rời thực tế của các cơ sở đào tạo hiện nay. Đối với luật sư, cần phải có một quy trình đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề đặc biệt để nâng cao vai trò và lòng tin của khách hàng đối với luật sư. Phân loại luật sư theo hướng luật sư chuyên môn theo lĩnh vực, luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng. Đối với những người tham gia tố tụng khác, chúng tôi cho rằng, trước khi bắt đầu một vụ, việc cụ thể, họ cần được tư vấn kiến thức pháp lý cơ bản của một quy trình tố tụng. Nhiệm vụ tư vấn này các được trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện là tốt nhất. Một sự tư vấn miễn phí, đầy đủ và chính thống sẽ làm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các chủ thể tham gia tố tụng trước khi bắt đầu vụ án. Và cuối cùng là sự nhận thức của các chủ thể khác của xã hội khi nhìn nhận về vai trò của hoạt động tranh tụng, các cấp có thẩm quyền cần xem xét, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tiếp cận đến các thủ tục tố tụng, đặc biệt là trách nhiệm pháp lý của những đối tượng có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh việc đầu tư nâng cho các yếu tố bên trong, còn phải đảm bảo các yếu tố về cơ sở vật chất, trang thiết bị, chế độ chính sách cho chủ thể thực hiện quyền tư pháp. Cụ thể, hiện nay công chức tòa án, viện kiểm sát đang được đánh đồng là công chức nói chung theo luật cán bộ, công chức, nên dẫn đến việc chi trả tiền lương và các chính sách khác cũng được đánh đồng như vậy. Trong khi đó, những người tiến hành tố tụng đang phải gánh một khối lượng công việc và trách nhiệm khi tiến hành tố tụng rất lớn, đòi hỏi phải có những quy định về tiền lương và chế độ, chính sách mang tính đặc thù đối với từng chủ thể trong quy trình tố tụng đủ để đảm bảo chăm lo tốt cho đời sống vật chất và tinh thần, quyết tâm đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực. Bên cạnh đó, phương tiện làm việc của cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay cũng chưa được quan tâm đúng mức, các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động xét xử vẫn còn rất lạc hậu, việc đầu tư xây dựng các công trình, trang thiết bị làm việc và bố trí phòng xét xử uy nghiêm, hiện đại, thư viện pháp luật dành riêng cho hoạt động xét xử tất cả những chủ thể tham gia tố tụng, cũng chưa có. Do đó, việc cung cấp và trang bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tranh tụng cũng rất cần thiết nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho yếu tố con người hoàn thành vai trò của mình./.
 

*ThS. ĐBQH, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8(288), tháng 4/2015)