Kiến nghị hoàn thiện các quy định về văn hóa, giáo dục khi sửa đổi hiến pháp 1992

01/08/2013

TS. LƯƠNG THỊ MỸ QUỲNH

Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.

TS. TÔ VĂN HÒA

Đại học Luật Hà Nội

Vai trò của các quy định về văn hóa, giáo dục (VH, GD) trong Hiến pháp Việt Nam được thể hiện trên hai khía cạnh. Thứ nhất, các quy định này ghi nhận thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam trong lĩnh vực VH, GD. Thứ hai, các quy định này thiết lập nền tảng xây dựng chế độ VH, GD của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; căn cứ vào đó, các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành và thực thi chính sách, pháp luật bảo đảm nền VH, GD Việt Nam phát triển theo đúng định hướng XHCN. Bài viết khảo cứu các yêu cầu đặt ra đối với các quy định về VH, GD trong Hiến pháp; đồng thời trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định của Hiến pháp hiện hành và kinh nghiệm thực tiễn một số quốc gia trong khu vực, đề xuất một số hướng hoàn thiện đối với các quy định về VH, GD trong Dự thảo Hiến pháp sửa đổi, bổ sung lần này.
Untitled_454.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Yêu cầu đối với các quy định của Hiến pháp về văn hóa, giáo dục
Để thực hiện tốt vai trò của mình như đề cập trên đây, các quy định của Hiến pháp Việt Nam về VH, GD phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản.
1.1. Yêu cầu về mặt nội dung - thể chế hóa đường lối của Đảng về phát triển văn hóa, giáo dục
Giữa Hiến pháp và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản tồn tại một mối quan hệ đặc biệt. Các chủ trương, đường lối của Đảng chứa đựng các quan điểm, tư tưởng của Đảng về sự phát triển mọi mặt của đất nước, đưa ra tầm nhìn và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các chủ trương, đường lối đó chỉ có thể trở thành hiện thực nếu như được thể chế hóa bằng pháp luật và được các cơ quan nhà nước thực hiện. Để chủ trương, đường lối của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật thì trước tiên các chủ trương, đường lối phải được thể chế hóa trong Hiến pháp. Hiến pháp, như vậy, là cầu nối về mặt tư tưởng, về mặt chính sách pháp luật giữa chủ trương, đường lối của Đảng với hệ thống pháp luật. Nếu Hiến pháp không thể chế hóa được đường lối của Đảng thì hệ thống pháp luật cũng sẽ khó làm được điều đó. Thiếu đi "chiếc cầu nối" sẽ làm cho các văn bản pháp luật hoặc phù hợp với Hiến pháp mà trái chủ trương, đường lối của Đảng hoặc ngược lại. Cả hai tình huống sẽ đều dẫn tới kết quả là các đường lối, chủ trương của Đảng sẽ không thể trở thành hiện thực, tức là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ không phát huy được tác dụng. Trong lĩnh vực VH, GD, các đường lối, chủ trương của Đảng đặt ra các chính sách cơ bản của Nhà nước đối với lĩnh vực VH, GD, xác định mục tiêu và đặc điểm của nền VH, GD XHCN mà chúng ta muốn xây dựng. Nếu Hiến pháp không thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển VH, GD thì chế độ VH, GD của chúng ta hoặc sẽ không được xây dựng trong thực tiễn hoặc sẽ phát triển lệch lạc so với các mục tiêu và kỳ vọng đặt ra.
Như vậy, có thể thấy yêu cầu cao nhất và trước tiên đối với các quy định của Hiến pháp Việt Nam về VH, GD là thể chế hóa được nội dung các đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển VH, GD. Tuy nhiên, có một thực tế là chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển VH, GD được ghi nhận ở rất nhiều văn kiện, trong đó có Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vừa được bổ sung, phát triển năm 2011, các Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng các nhiệm kỳ mà gần đây nhất là Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Bên cạnh đó mỗi lĩnh vực VH, GD đều đã có những văn kiện riêng, ví dụ Nghị quyết Hội nghị trung ương 10, Khóa IX (2004) về xây dựng nền văn hóa đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội, Nghị quyết Hội nghị trung ương 5, Khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hay Nghị quyết Hội nghị trung ương 2 Khóa VIII (1998) về giáo dục và công nghệ. Tất cả các văn kiện này đều có tầm nhìn chiến lược đối với việc phát triển VH, GD.
Để đáp ứng yêu cầu phù hợp với các đường lối, chủ trương của Đảng về VH, GD, Hiến pháp cần thể chế hóa được tinh thần của tất cả các văn kiện này mà trước tiên và thể hiện cô đọng nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Cương lĩnh là văn kiện được coi là có hiệu lực cao nhất trong số các văn kiện của Đảng, trong đó chứa đựng tầm nhìn dài hạn và căn bản nhất về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở một góc độ nào đó, các văn kiện khác của Đảng đều có thể được coi là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương và tầm nhìn chiến lược dài hạn trong Cương lĩnh đối với từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Chính vì vậy, yêu cầu thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về VH, GD có nghĩa là Hiến pháp cần thể chế hóa được các nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011). Hiến pháp thể chế hóa được Cương lĩnh cũng là tiền đề căn bản cho các văn bản quy phạm pháp luật khác cụ thể hóa Hiến pháp và thể chế hóa các văn kiện chuyên ngành của Đảng trong từng lĩnh vực tương ứng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011), đường lối, chủ trương căn bản phát triển VH, GD của Việt Nam được xác định như sau:
Về phát triển văn hóa, chính sách căn bản là “xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Về giáo dục và đào tạo, chính sách căn bản là “giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
1.2. Yêu cầu về kỹ thuật lập hiến - quy định mang tính định hướng, ngắn gọn và mang tính ràng buộc
Yêu cầu về kỹ thuật lập hiến đối với các quy định về VH, GD trong Hiến pháp được xác định trên ba khía cạnh: mức độ chi tiết của các quy định, tính pháp lý của các quy định và trị trí của các quy định đó trong bản Hiến pháp. Như phân tích trên đây, yêu cầu quan trọng nhất về mặt nội dung đối với các quy định trong Hiến pháp về VH, GD là phải thể chế hóa được các chủ trương, đường lối cơ bản của Đảng về phát triển VH, GD được thể hiện trước tiên là trong Cương lĩnh. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước và hệ thống pháp luật. Các vấn đề về phát triển kinh tế, xã hội, VH, GD.... được quy định trong Hiến pháp đều là những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất và chung nhất. Cương lĩnh là văn kiện cơ bản và quan trọng nhất của Đảng, trong đó chứa đựng các chủ trương, đường lối bao quát nhất, căn bản và quan trọng nhất của Đảng trong mọi mặt, lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi vì Cương lĩnh mang tính bao quát nhất, Hiến pháp mang tính cơ bản nhất nên khi Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh về các vấn đề VH, GD, đương nhiên các quy định tương ứng của Hiến pháp cũng phải mang tính khái quát, chung chung. Vì vậy, các quy định về VH, GD trong Hiến pháp không cần quy định một cách quá chi tiết. Các quy định đó chỉ cần quy định ở mức độ khái quát một cách hợp lý để vừa điều chỉnh được những quan hệ căn bản, quan trọng nhất trong lĩnh vực VH, GD vừa thể chế hóa được Cương lĩnh và vừa đóng vai trò định hướng cho chính sách và pháp luật cụ thể do các cơ quan nhà nước ban hành trong lĩnh vực VH, GD.
Tuy nhiên, tính khái quát, chung chung không có nghĩa rằng các quy định của Hiến pháp về VH, GD chỉ mang tính cương lĩnh, ghi nhận thành quả của cách mạng. Các quy định đó phải được xây dựng một cách phù hợp về mặt kỹ thuật lập pháp để chúng không chỉ thể hiện được định hướng phát triển VH, GD của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mà còn phải bảo đảm rằng các định hướng đó phải được hiện thực hóa, có nghĩa rằng những định hướng đó phải có giá trị ràng buộc đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực tương ứng. Điều này có nghĩa tính pháp lý, hay nói cách khác là tính quy phạm, trở thành một yêu cầu không thể thiếu đối với các quy định về VH, GD trong Hiến pháp. Các quy định đó phải được xây dựng như các quy phạm pháp luật, với nội dung là các quyền hay nghĩa vụ pháp lý rõ ràng, chứ không phải như những khẩu hiệu mang tính tuyên truyền. Nói cách khác, việc chuyển tải nội dung của Cương lĩnh về VH, GD vào các quy định của Hiến pháp là một nghệ thuật của kỹ thuật lập pháp thông qua quá trình “thể chế hóa” chứ không đơn thuần là việc chép nguyên lời văn của Cương lĩnh vào các quy định tương ứng của Hiến pháp.
2. Hướng hoàn thiện các quy định về văn hóa, giáo dục trong Hiến pháp 1992           
Trên cơ sở những phân tích trên đây về yêu cầu đối với các quy định của Hiến pháp về VH, GD, chúng tôi đề xuất một số hướng sửa đổi, bổ sung các quy định về VH, GD trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) như sau:
2.1. Nội dung và sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng
Các quy định về VH, GD trong Hiến pháp 1992 được quy định từ Điều 30, 32 đến Điều 36, trong đó từ Điều 30, 32 đến Điều 34 quy định về văn hóa, Điều 35 và 36 dành cho chính sách giáo dục. Đối chiếu với các chủ trương, đường lối về phát triển VH, GD trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ được đề cập ở mục 1.1 trên đây, có thể thấy, về căn bản các quy định hiện hành của Hiến pháp 1992 về VH, GD có nội dung phù hợp với Cương lĩnh. Về văn hóa, Hiến pháp 1992 đã thể hiện được chính sách phát triển “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại”. Tuy nhiên, một số nội dung mới của Cương lĩnh vẫn chưa được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Đó là các nội dung: (1) phát triển nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ; (2) Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là những nội dung quan trọng trong chủ trương, đường lối xây dựng nền văn hóa XHCN của Đảng. Những nội dung này cần được thể chế hóa trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung hiến pháp 1992. Về giáo dục, Hiến pháp 1992 cũng đã thể hiện được những nội dung căn bản trong chính sách phát triển giáo dục của Cương lĩnh, ví dụ coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, cũng còn có một số nội dung mới trong chủ trương, đường lối về phát triển giáo dục đào tạo của Cương lĩnh mà Hiến pháp hiện hành vẫn chưa thể hiện, ví dụ các chủ trương “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế”, “đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”. Đây cũng là những chủ trương quan trọng, đóng vai trò quyết định đối với sự nghiệp xây dựng hệ thống giáo dục, đào tạo của Việt Nam và do đó cần được thể chế hóa trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung sắp tới.       
2.2. Kỹ thuật lập hiến và tính quy phạm trong các quy định
Đặc điểm dễ nhận thấy trong các quy định của Hiến pháp hiện hành về VH, GD là tính quy phạm của các quy định này rất yếu. Nội dung của các quy định không thể hiện rõ đó là quyền hay nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể. Tính ràng buộc về mặt chính sách của các quy định này đối với các cơ quan nhà nước cũng không rõ ràng. Ví dụ, khi Điều 30 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” thì không thấy rõ việc bảo tồn và phát triển nền văn hóa kia có phải là trách nhiệm của Nhà nước hay không; hay khi Điều 35 quy định “Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo…” thì cũng không rõ Nhà nước có trách nhiệm đến đâu trong việc xây dựng một nền giáo dục với tiêu chí như vậy. Thiếu đi tính quy phạm, rõ ràng các quy định của Hiến pháp hiện hành về VH, GD không khác nhiều so với những ghi nhận mang tính khẩu hiệu, đường lối. Vì vậy, sẽ không phải là điều ngạc nhiên nếu hiệu quả thực thi của các quy định này và sức sống của chúng trong thực tiễn là rất yếu.
Về kỹ thuật lập hiến, mặc dù các quy định hiện hành về VH, GD chưa thể chế hóa hết các chủ trương, đường lối phát triển VH, GD của Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ, song trong nội dung của các quy định đó đã có những điểm quá chi tiết, cụ thể một cách không cần thiết. Ví dụ các quy định “nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục” (Điều 30); “nghiêm cấm những hoạt động văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam (Điều 33); “nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh” (Điều 34) không nên đưa vào các điều khoản về VH, GD của Hiến pháp. Như trên đã trình bày, các quy định của Hiến pháp về VH, GD đặt ra định hướng cho hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm phát triển VH, GD theo những chủ trương, đường lối nhất định. Những nội dung “cấm” như trên mang bản chất khác hắn. Đó không phải là chính sách của Nhà nước mà là sự hạn chế những quyền tương ứng của người dân về văn hóa, tư tưởng. Những hạn chế này nên được quy định ở Điều 60, thuộc chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.           
Đồng thời, các quy định về VH, GD trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung cần ngắn gọn và súc tích hơn. Chỉ nên chọn những nội dung cốt lõi của chủ trương, đường lối phát triển VH, GD của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh để thể chế hóa nó thành các quy định ngắn gọn, súc tích mang tính quy phạm và ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước phải bảo đảm hiện thực hóa các chủ trương, đường lối đó thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp hay tư pháp cụ thể của mình. Ví dụ, chủ trương: “xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Cương lĩnh nên được thể chế hóa trong Hiến pháp thành quy định: “Các cơ quan nhà nước của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thông qua các hoạt động cụ thể của mình, có trách nhiệm bảo đảm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Không nên quy định như hiện nay là “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Chủ trương: “xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người” trong Cương lĩnh nên được thể chế hóa trong quy định của Hiến pháp thành quy định: “các cơ quan nhà nước thông qua hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật của mình có trách nhiệm xây dựng và khuyến khích sự phát triển xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người”.
2.3. Vị trí của các quy định trong Hiến pháp
Khi quy định về VH, GD, cùng với các quy định tương tự về kinh tế, khoa học, công nghệ, cần thiết phải thể hiện một cách ngắn gọn, súc tích và mang tính quy phạm nhiều hơn. Các quy định tương ứng trong Hiến pháp sửa đổi, bổ sung sẽ không quá dài và rườm rà như hiện nay. Điều đó có thể tạo tiền đề cho việc tập hợp các quy định về kinh tế, VH, GD, khoa học, công nghệ, môi trường thành một chương riêng của Hiến pháp. Chương đó nên được đặt sau chương quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong chương đó, các quy định về VH, GD chỉ nên đưa vào 2 hoặc 3 điều khoản./.

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15(247), tháng 8/2013)