Biên giới đất liền Việt – Trung: Thời kỳ mới

01/10/2010

PGS.TS. NGUYỄN HỒNG THAO

Đại học Quốc gia Hà Nội.

Sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc vào 31/12/2008, các văn bản pháp lý về đường biên giới Việt – Trung,  Nghị định thư phân giới cắm mốc (PGCM), Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã chính thức có hiệu lực từ ngày 14/7/2010.  Các văn kiện này đã tạo điều kiện cho hai nước đi vào một thời kỳ mới: quản lý đường biên giới bằng các hiệp ước, hiệp đinh quốc tế do hai nước có chủ quyền thỏa thuận. Hai bên đang hoàn thành các thủ tục để đăng ký các văn kiện nói trên tại Liên hợp quốc. Từ một biên giới mang tính vùng đệm trong thời phong kiến, đến “có biên mà không có giới” trong thời Pháp thuộc, biên giới hôm nay do hai nước bình đẳng chủ quyền xác lập bằng các văn kiện pháp lý trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng đường biên giới lịch sử truyền thống và phù hợp với luật pháp quốc tế. Từ năm 938, khi Ngô Quyền giành được độc lập, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bằng nỗ lực và khát vọng chung, ước mơ ngàn đời của các thế hệ Việt - Trung “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Sách trời định phận rõ non sông) đã được thực hiện bằng một đường biên giới hoàn chỉnh từ Đông sang Tây, được đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại, được xác định chính xác bằng các biện pháp kỹ thuật cao (hệ thống định vị toàn cầu GPS, hệ thống thông tin địa lý GIS, giao cảm RS), ghi nhận bằng các bản đồ và mô tả chi tiết hướng đi.
Đường biên giới Việt-Trung từ thế kỷ thứ X là đường biên giới vùng, mang tính tập quán, chưa được xác định bằng các văn bản pháp lý quốc tế. Với Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895, Pháp và nhà Thanh đã xác định biên giới, đánh dấu bằng 314 cột mốc, ghi nhận trên bản đồ tỷ lệ 1:100.000. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khu vực còn để trắng, chưa cắm mốc, chưa được giải quyết triệt để như thác Bản Giốc, cửa sông Bắc Luân, nhiều mốc qua thời gian và chiến tranh đã bị hư hại, dịch chuyển, địa hình tại thực địa nhiều nơi không phù hợp với bản đồ, gây khó khăn cho quản lý. Ngay sau khi hai nước có hòa bình, vấn đề biên giới lãnh thổ đã được quan tâm giải quyết. Ngày 2/11/1957, Ban Bí thư­ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư­ cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên giải quyết vấn đề biên giới trên cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để lại và mọi tranh chấp có thể giải quyết bằng đàm phán. Tháng 4/1958, Trung ­ương Đảng Cộng sản Trung Quốc có thư đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam nhưng hai nước đã không có điều kiện triển khai do chiến tranh trên đất nước Việt Nam (1954-1975). Sau Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973, tháng 1/1974 hai nước mới tiến hành đàm phán hoạch định biên giới. Ngày 19/10/1993 hai Đoàn đàm phán Chính phủ đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc, phần nói về biên giới trên bộ quy định: "Hai Bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Trung Quốc và Pháp ngày 26/6/1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20/6/1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định, cũng như các mốc quốc giới cắm theo quy định, đối chiếu xác định lại toàn bộ Đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc". Hai bên đã đối chiếu lại toàn bộ đường biên giới. Hơn 2/3 đường biên giới trùng nhau, chỉ còn 289 khu vực (với tổng diện tích khoảng 231km2, trong đó 74 khu vực khác nhau vì lý do kỹ thuật vẽ chồng lấn lên nhau, được gọi là khu vực A; 51 khu vực vì lý do kỹ thuật hai bên đều chưa vẽ tới, gọi là khu vực B; 164 khu vực có tranh chấp, hoặc có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới, gọi là khu vực C) cần phải đàm phán. Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền Việt - Trung ngày 30/12/1999 đã quy thuộc 114,9 km2 thuộc Việt Nam, 117,2 km2 thuộc Trung Quốc, trừ 4 khu vực có sông suối, thể hiện bằng nét đứt tại thác Bản Giốc, cửa sông Bắc Luân … Kết quả này là tương đối công bằng, hợp lý, phù hợp với các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại và là cơ sở pháp lý quan trọng để hai bên tiến hành công tác phân giới cắm mốc (PGCM), xác định một đường biên giới rõ ràng, được đánh dấu bằng hệ thống mốc giới chính quy hiện đại, thuận lợi cho quản lý trên thực địa. Ngày 31/12/2008, với sự nỗ lực, vượt mọi khó khăn gian khổ, hợp tác của các tỉnh biên giới, các lực lượng PGCM, hai bên đã hoàn thành công tác PGCM trên thực địa. Hai bên cũng thống nhất xác lập biên giới tại thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân mà các chính quyền trước kia chưa giải quyết để đường biên giới được hoàn chỉnh. Trong quá trình nỗ lực PGCM, lực lượng PGCM Việt Nam đã hy sinh ba người, 35 người bị thương. Giai đoạn ba của xác lập đường biên giới là đối chiếu hoàn chỉnh hồ sơ mốc giới, các văn bản pháp lý để đi đến ký kết Nghị định thư PGCM mô tả chi tiết đường biên mốc giới. Chuyên gia hai bên đã kiểm tra đối chiếu và in toàn bộ văn kiện: Nghị định thư PGCM (934 trang), Bộ bản đồ đính kèm (80 tờ) và các phụ lục kèm theo (Bảng đăng ký mốc giới 3.960 trang, Bảng toạ độ và độ cao mốc giới 222 trang, Bảng kê sự quy thuộc các cồn bãi 16 trang). Ngày 18/11/2009 Chính phủ hai nước đã ký kết ba văn kiện gồm: Nghị định thư phân giới, cắm mốc; Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và Hiệp định về Cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
  Đường biên giới được thể hiện trong Nghị định thư PGCM và các bản đồ, phụ lục kèm theo là thành quả của hơn nửa thế kỷ quan tâm giải quyết của Đảng và Chính phủ hai nước (từ 1957 đến 2010), 36 năm với 4 đợt đàm phán lớn với hàng ngàn cuộc đàm phán các cấp (từ 1974 đến 2010), trong đó đợt đàm phán cuối cùng dài nhất - tới 19 năm - nỗ lực liên tục trên đàm phán và thực địa nhằm hoạch định và PGCM biên giới Việt Nam – Trung Quốc (1991-1999: đàm phán, ký Hiệp ước biên giới trên đất liền; 2000-2008 đàm phán, phân giới, cắm mốc trên thực địa, 2009-2010 đàm phán xây dựng Nghị định thư PGCM và các Hiệp định liên quan). Toàn bộ đường biên giới dài 1.449,566 km, (trong đó đường biên giới trên đất liền là 1.065,652 km, đường biên giới nước là 383,914 km) được đánh dấu bằng 1.971 cột mốc cho 1.378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ (một vị trí trên thực địa có thể được đánh dấu bằng 1, 2 hoặc 3 mốc tuỳ theo quy định và thực địa). Mốc số 0 là giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc là mốc lớn, được làm bằng đá hoa cương, có ba mặt, gắn quốc huy của ba nước, đặt trên đỉnh núi Khoan La San (Shi Ceng Da Shan), có độ cao là 1.866,23 m, tọa độ địa lý 22º 24' 02,295" vĩ độ Bắc, 102º 08' 38,109" kinh độ Đông, theo Hiệp định về Ngã ba biên giới năm 2007 ký giữa Việt Nam, Lào và Trung Quốc. Mốc cuối cùng (1.378) là mốc đơn, loại trung, làm bằng đá hoa cương, đặt trên phía Đông Nam bãi Dậu Gót (Heng Shi Sha Zhou), có độ cao là - 1,01m, tọa độ địa lý 21º 30' 15,244''vĩ độ Bắc, 108º 04' 08,974''kinh độ Đông. Mốc được thiết kế đặt trên đế mốc bằng bê tông hình tròn cao gần 10 m để bảo đảm khi thuỷ triều lên (4-5m), mốc vẫn nổi trên mặt nước. Từ mốc cuối cùng này, biên giới theo trung tuyến sông kéo đến giới điểm 62 và cũng là điểm bắt đầu của biên giới biển trong Vịnh Bắc Bộ. Mô tả chi tiết hướng đi của đường biên giới được ghi ở Phần II của Nghị định thư PGCM, đồng thời đường biên giới được thể hiện trên “Bản đồ biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, tỷ lệ 1: 50.000. Nghị định thư PGCM cũng lần đầu tiên quy định rõ ràng các cồn bãi trên sông suối quy thuộc giữa hai nước. Phù hợp với luật pháp quốc tế, sau khi Nghị định thư này có hiệu lực, bất kỳ sự thay đổi của địa hình, sông suối thực địa đều không làm thay đổi vị trí của đường biên giới đã phân giới, trừ khi hai bên có thỏa thuận khác. Đường biên giới sẽ được tiến hành kiểm tra liên hợp 10 năm một lần để bảo dưỡng, duy trì sửa chữa mốc giới. Hai khu vực thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân sẽ có quy chế pháp lý đặc thù. Nhằm tạo sự thuận lợi cho tàu thuyền hai bên qua lại khu vực cửa sông Bắc Luân và hợp tác khai thác tiềm năng du lịch khu vực thác Bản Giốc, hai bên tiến hành đàm phán và sẽ ký kết Hiệp định về Quy chế tự do đi lại của tàu thuyền ở khu vực cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác khai thác tiềm năng du lịch thác Bản Giốc trong thời gian tới.
Nghị định thư và các văn kiện đính kèm gồm bộ bản đồ địa hình khu vực biên giới Việt - Trung, có thể hiện đường biên giới và vị trí các mốc giới (35 mảnh); tập "Bảng đăng ký mốc giới"; tập "Bảng toạ độ, độ cao mốc giới" và tập "Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên sông suối biên giới" cùng với Hiệp ước Hoạch định biên giới đất liền Việt - Trung là bộ Hiệp định biên giới đầy đủ nhất, lớn nhất, phù hợp với luật pháp quốc tế mà Việt Nam ký với một nước láng giềng trong lịch sử của mình.
Để quản lý biên giới hai nước trong thời kỳ mới, phù hợp với Nghị định thư PGCM, hai bên đã ký kết Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về Cửa khẩu và quản lý cửa khẩu, thay thế "Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa" ký ngày 7/11/1991. Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu quy định rõ hệ thống cửa khẩu song phương và cửa khẩu quốc tế cùng chế độ pháp lý của chúng. Hai bên xác nhận chín cặp cửa khẩu quốc tế đã được mở trên vùng biên giới gồm Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà, Lào Cai - Hà Khẩu (đường bộ), Lào Cai - Hà Khẩu (đường sắt), Thanh Thủy - Thiên Bảo, Trà Lĩnh - Long Bang, Tà Lùng - Thủy Khẩu, Đồng Đăng - Bằng Tường (đường sắt), Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hưng và tên 13 cửa khẩu khác sẽ được mở khi có đủ điều kiện, thời gian và thể thức mở cụ thể sẽ do hai bên thoả thuận qua đường ngoại giao. Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới với 11 Chương và 54 điều quy định cụ thể nội dung các hoạt động trên biên giới, các công trình biên giới, chế độ qua lại biên giới, chế độ kiểm tra, hợp tác giải quyết các vụ việc biên giới. Hiệp định đã tiếp thu các kinh nghiệm quản lý biên giới giữa hai nước trong nửa thế kỷ qua, các Hiệp định quy chế quản lý biên giới hai nước đã ký với các nước láng giềng như Hiệp định quy chế quản lý biên giới Việt - Lào 1977, Hiệp định quy chế quản lý biên giới  Trung - Nga 2008. Nội dung của Hiệp định mang tính hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu mới, đặc biệt các quy định mới về cơ chế tổ chức quản lý thông qua các Đại diện biên giới. Toàn tuyến biên giới sẽ được chia làm tám đoạn do tám đại diện biên giới quốc gia của mỗi bên cử ra nhằm hợp tác quản lý tốt đường biên giới.
Ngoài ý nghĩa lần đầu tiên xác định rõ ràng một đường biên giới giữa hai nước nêu trên, việc ký kết ba văn kiện lần này đã góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác truyền thống Việt - Trung. Đánh giá của Ban đối ngoại trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc viết trong Tạp chí Thế giới đương đại số 4/2009: “Trong thế kỷ XX, quan hệ này đã một thời xấu đi, trong đó tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ song phương. Vì thế việc giải quyết ổn thoả vấn đề biên giới, kết thúc lịch sử “có biên không có giới”, xây dựng biên giới Trung - Việt thành biên giới hoà bình, ổn định lâu dài không những là nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai nước, mà còn là vấn đề lớn trong quá trình hai nước giải quyết đầu tiên và có được bước đột phá triệt để kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay”. Hoàn thành PGCM, xác lập biên giới bằng các điều ước quốc tế và ký kết các văn bản pháp lý quản lý biên giới đất liền cho thấy, mối quan hệ láng giềng đoàn kết hữu nghị giữa hai nước đã bước thêm một bước vững chắc trên tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai và trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Hai trong ba vấn đề biên giới do lịch sử để lại trong quan hệ Việt - Trung là đường biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ đã được giải quyết. Các bài học trong giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ và biên giới đất liền sẽ là kinh nghiệm quý báu cho hai nước cũng như các nước có liên quan hợp tác tìm một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề biển Đông trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982.
Các Hiệp định này tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chức năng của hai bên tiến hành quản lý biên giới một cách khoa học, hiệu quả, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, xây kè lấn chiếm và các vi phạm khác do thiếu hiểu biết về đường biên giới. Việc thực hiện ba văn kiện sẽ mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, tạo điều kiện cho các địa phương hai bên biên giới mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị. Năm 1991, kim ngạch thương mại Việt - Trung chỉ chiếm 30 triệu USD. Từ năm 2004, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Mức tăng trưởng kim ngạch mậu dịch hai nước từ năm 2001-2010 bình quân trên 25%. Năm 2008 trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế, kim ngạch hai nước đạt trên 20,18 tỷ USD, tăng 535 lần so với kim ngạch năm 1991. Năm 2010, dự kiến kim ngạch mâu dịch hai nước sẽ đạt 25 tỷ USD vượt xa mục tiêu mà lãnh đạo hai nước đã đề ra 20 tỷ cho năm 2010. Một đường biên giới ổn định sẽ tạo điều kiện cho hai nước thực hiện các kế hoạch hợp tác phát triển kinh tế lớn hơn như Dự án đường cao tốc Vân Nam - Lào Cai - Xuyên Á,  khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Bằng Tường, khu du lịch thác Bản Giốc...
Các Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia Việt - Lào ngày 18/7/1977, Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới và Nghị định thư về phân giới trên thực địa và cắm mốc quốc giới Việt - Lào ngày 24/1/1986; Hiệp định về khai thác chung Việt Nam - Malaysia 1992; Hiệp định Phân định biển Việt Nam - Thái Lan 1997, Hiệp định Phân định thềm lục địa Việt Nam - Indonesia 2003, Hiệp ước Hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985 ký ngày 10/10/2005, Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ 2000, Hiệp ước Hoạch định biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc 1999, Nghị định thư về Phân giới cắm mốc, Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới; Hiệp định về Cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc 2009 cho thấy thiện chí và quyết tâm của Việt Nam sẵn sàng giải quyết mọi tranh chấp về biên giới lãnh thổ, các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế./.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 19(180), tháng 10/2010)