Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay

01/04/2010

NGUYỄN QUỐC SỬU

Học viện Chính trị, Hành chính Quốc gia

Xây dựng nền hành chính Việt Nam trong sạch, vững mạnh là một tất yếu khách quan trong tiến trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Nền hành chính đó đòi hỏi phải có một đội ngũ CBCCHC không chỉ vững vàng về bản lĩnh chính trị, có đạo đức, lối sống lành mạnh, mà còn phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở trình độ cao và tinh thông nghiệp vụ. CBCCHC là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước phải được CBCCHC triển khai thì mới có thể đi vào trong đời sống xã hội được. CBCCHC là những người trực tiếp chuyển “pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động”. Vì vậy, đội ngũ CBCCHC phải được trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật và có ý thức pháp luật ở trình độ cao để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Untitled_882.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Khái niệm GDPL cho CBCCHC
 GDPL nói chung và GDPL cho CBCCHC nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng và được coi là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”[1]. Để mọi người dân và CBCCHC có ý thức pháp luật, biết sống và làm việc theo pháp luật thì vấn đề GDPL phải được đặt ra một cách nghiêm túc và phải được giải quyết đúng đắn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
Hiện nay, khái niệm GDPL được tiếp cận từ nhiều góc độ rộng, hẹp khác nhau tùy theo cơ sở xuất phát để nghiên cứu và vận dụng vào quá trình GDPL cụ thể.
Thứ nhất, GDPL được coi là một bộ phận - một hệ thống con của hệ thống giáo dục nói chung. GDPL được khẳng định là một bộ phận, một hoạt động có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương hỗ với các hệ thống con như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức... tạo nên một hệ thống các mối quan hệ xã hội tác động đến các cá nhân, làm hình thành nên bản chất người - xã hội - lịch sử. Quan niệm này về GDPL xuất phát từ nghĩa rộng nhất của thuật ngữ giáo dục, đồng nhất nó với quá trình xã hội hóa cá nhân. Nhân cách con người được hình thành và phát triển là do tác động, ảnh hưởng của tổ hợp các nhân tố xã hội, như môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, pháp luật, đạo đức... trong quá trình con người tham gia vào các quan hệ xã hội. Quan niệm GDPL theo nghĩa rộng này có hai ý nghĩa quan trọng sau đây:
 Một là, thấy được quá trình xã hội hóa cá nhân nói chung và GDPL nói riêng chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố xã hội. Chủ thể giáo dục có thể chủ động khai thác, phát huy các yếu tố tích cực và hạn chế ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực, có tính tự phát, làm hạn chế hoặc suy giảm hiệu quả của GDPL trong thực tiễn hiện nay.
Hai là, không đồng nhất, không coi GDPL đã có trong giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức, do đó đã hạ thấp vai trò của GDPL. Ví dụ, quan niệm đạo đức là pháp luật tối đa, còn pháp luật chỉ là đạo đức tối thiểu nên không cần phải GDPL, mọi người dân phải có nghĩa vụ chấp hành pháp luật. Quan niệm như vậy rõ ràng là đã bó hẹp phạm vi của GDPL, coi GDPL chỉ còn là việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật của Nhà nước, là việc mọi công dân phải chấp hành pháp luật.
Thứ hai, GDPL theo nghĩa hẹp là quá trình tác động (hoạt động) có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà giáo dục (chủ thể GDPL) để chuyển tải, truyền đạt những nội dung (thông tin, tri thức về các bộ luật, đạo luật...), thông qua các phương pháp giáo dục khoa học và hình thức giáo dục phù hợp tới đối tượng tiếp nhận giáo dục (khách thể GDPL) nhằm đạt được những mục tiêu, hiệu quả giáo dục nhất định.
 Theo nghĩa hẹp nói trên, có thể định nghĩa: GDPL là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục đến khách thể giáo dục nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết (nhận thức) về pháp luật, tình cảm, thói quen và hành vi xử sự theo các chuẩn mực pháp luật.
Nội dung định nghĩa GDPL nêu trên đề cập đến những khía cạnh sau:
            - Hoạt động GDPL là hoạt động có mục đích (chỉ bao hàm những tác động mang tính chất tự giác) của chủ thể GDPL lên đối tượng (cá nhân, tổ chức) cần và được GDPL với các nội dung, nhiệm vụ cụ thể khác nhau. Tính có mục đích trong hoạt động của chủ thể GDPL mang tính khách quan, thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội về pháp luật, được chủ thể GDPL chuyển tải và biến nó thành nhu cầu, động cơ bên trong của đối tượng tiếp nhận GDPL. Quá trình GDPL chỉ đạt được hiệu quả khi đối tượng được GDPL thực sự tự giác biến những yêu cầu pháp luật khách quan thành nhu cầu nội tại của bản thân người được GDPL.
            - Quá trình GDPL luôn luôn là hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo nội dung và chương trình nhất định, dựa trên các phương pháp giáo dục khoa học, hiện đại và các hình thức giáo dục phù hợp nhằm hiện thực hóa tối ưu mục đích GDPL đã định. Khía cạnh này của khái niệm GDPL có một số vấn đề cần lưu ý: GDPL có những điểm chung của quá trình giáo dục, như cũng có nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức..., nhưng chúng chưa được xác định thật sự rõ ràng, ổn định trong một hệ thống. Điều đó đòi hỏi phải tìm ra cách tiếp cận quá trình GDPL phù hợp. Bên cạnh đó, không được đồng nhất chương trình đào tạo của các trường luật (đào tạo những người làm nghề luật) với chương trình GDPL theo khái niệm GDPL cho mọi công dân. Ngược lại, việc đào tạo những người làm việc trong các lĩnh vực chuyên về luật hoặc có liên quan đến pháp luật, tuy cũng là giáo dục - đào tạo về pháp luật, nhưng không thể xem đó là đối tượng GDPL theo chương trình GDPL chung.
            - Suy cho cùng, quá trình GDPL phải đạt được hiệu quả đặt ra. Hiệu quả của hoạt động GDPL phải được nhìn nhận, đánh giá qua những mục tiêu đạt được từ quá trình này. Đó là mục tiêu về nhận thức (sự tiếp thu, tích lũy những thông tin, tri thức, hiểu biết về pháp luật); mục tiêu về thái độ, tình cảm (làm hình thành ở đối tượng được giáo dục sự tôn trọng pháp luật; sự phê phán, lên án các hành vi phạm pháp, phạm tội; sự công phẫn trước các tội ác dã man; niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật...); mục tiêu về hành vi (kỹ năng vận dụng tri thức, hiểu biết pháp luật để giải quyết công việc chuyên môn, hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật...).
Xuất phát từ định nghĩa GDPL và vai trò của GDPL cho CBCCHC, có thể khẳng định, GDPL cho CBCCHC là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp đặc thù và bằng nhiều hình thức khác nhau, hướng tới cung cấp, trang bị cho CBCCHC những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, về các vấn đề pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng, nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
2. Vai trò của GDPL cho CBCCHC
GDPL cho CBCCHC ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là một trong những việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm tăng cường pháp chế XHCN. GDPL cho CBCCHC góp phần làm hình thành ở họ ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật, phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, GDPL cho CBCCHC là yêu cầu khách quan và là đòi hỏi cấp bách.
Từ vị trí đặc biệt của CBCCHC trong NNPQ XHCN, có thể thấy, bản thân họ có vai trò đặc biệt trong GDPL, vì họ vừa là đối tượng tiếp nhận GDPL, đồng thời cũng là chủ thể của GDPL.
Với tư cách là đối tượng của GDPL, quá trình GDPL có tác dụng cung cấp cho CBCCHC những thông tin, kiến thức, hiểu biết về pháp luật nói chung, pháp luật liên quan đến công vụ của họ nói riêng, làm hình thành và củng cố ý thức pháp luật nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ này, góp phần rèn luyện các kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ cho họ; từ đó, giúp họ hoàn thành tốt các nhiệm vụ chuyên môn trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
Với tư cách là chủ thể của GDPL, hoạt động GDPL lại đòi hỏi ở CBCCHC không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức, hiểu biết sâu sắc về các lĩnh vực pháp luật, mà còn phải có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có kinh nghiệm cao trong việc tuyên truyền, GDPL. Vì thế, trong quá trình GDPL cần phải chú trọng việc giáo dục, bồi dưỡng tri thức lý luận về pháp luật cho CBCCHC.
Trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, các bộ luật, đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mọi hoạt động của công dân, tổ chức đều phải tuân theo các quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức là các “tế bào” cấu thành nên bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước không thể hình thành, tồn tại và hoạt động nếu thiếu đội ngũ cán bộ, công chức. Về mặt lý thuyết, mỗi cán bộ, công chức đồng thời cũng là một công dân, cũng phải tuân thủ theo pháp luật. Tuy nhiên, cán bộ, công chức còn là những người trực tiếp thực thi pháp luật, là người đại diện cho cơ quan công quyền trước nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước có được thực hiện một cách hiệu quả hay không là do đội ngũ cán bộ, công chức quyết định. Quá trình xây dựng NNPQ đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải nắm vững không chỉ kiến thức pháp luật chung, mà còn phải nắm vững kiến thức pháp luật liên quan đến chuyên môn của họ để, trước hết là chấp hành pháp luật; sau đó, có thể vận dụng pháp luật vào thực tế trong quá trình tiếp xúc, làm việc với nhân dân.
            Thực tế cho thấy, việc coi nhẹ công tác GDPL cho CBCCHC là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của CBCCHC chưa cao. Cụ thể, một bộ phận CBCCHC còn yếu về năng lực chuyên môn, một bộ phận không nhỏ bị thoái hóa, biến chất dưới tác động của cơ chế kinh tế thị trường. Dân chủ ở nhiều lúc, nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp[2].
Mặt khác, hoạt động chuyên môn của cán bộ, công chức cũng chính là cơ sở để nhân dân đánh giá về hiệu lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước. NNPQ có những yêu cầu riêng như pháp luật vì con người, phân công quyền lực, chủ quyền nhân dân, chính quyền chịu sự ràng buộc bởi pháp luật, tư pháp độc lập... Nhưng, suy cho cùng, những yêu cầu của NNPQ chỉ hướng về một mục tiêu là chống lại sự lạm quyền của Nhà nước, sự vi phạm của Nhà nước đối với những nguyên tắc pháp lý của việc hành xử quyền lực để bảo vệ những quyền và tự do của con người[3]. NNPQ là Nhà nước bị hạn chế quyền lực bằng pháp luật. Trong khi kêu gọi mọi công dân phải tuân thủ pháp luật thì bản thân các CBCCHC phải là đội ngũ đi đầu, phải triệt để tuân thủ pháp luật. Đó cũng là đảm bảo nguyên tắc quan trọng trong NNPQ: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
            CBCCHC là “công bộc”, là “đầy tớ” của nhân dân, hàng ngày trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết các công việc thuộc bộ máy nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân... Giải quyết những công việc đó đòi hỏi phải đảm bảo tính trung thực trên cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ chưa đạt chuẩn còn cao; nhiều cán bộ, công chức cơ sở chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống; tỉnh, thành nào cũng còn một số cán bộ có trình độ văn hóa tiểu học và chưa được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Năm 2008, trong trả lời phỏng vấn của báo giới, Bộ Nội vụ đưa ra nhận định về đội ngũ cán bộ, công chức:“theo đánh giá chung, đội ngũ này còn không ít hạn chế so với đòi hỏi của thời kỳ mới. Chỉ khoảng 30% trong số họ đáp ứng được yêu cầu, khoảng 40% “tàm tạm”, và khoảng 30% còn lại là chưa đáp ứng được yêu cầu”.
            Về thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết công việc của cán bộ, công chức ở cơ sở cũng còn một số bất cập. Ở một số địa phương, vẫn còn tình trạng cán bộ cấp cơ sở giải quyết công việc hàng ngày mà không quan tâm cập nhật chính sách, văn bản pháp luật mới. Có thể lấy một ví dụ là Quyết định 80/TTg năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho nông dân đã ban hành được 3 tháng, nhưng khi phỏng vấn một số cán bộ lãnh đạo một xã ở tỉnh Hà Tây (cũ) thì một số người còn nói là chưa hề được nghe thấy quyết định này, còn theo một số lãnh đạo huyện Hoài Đức thì ở một số xã nhiều khi văn bản pháp luật về nhưng lại bị thất lạc ngay trong chính Ủy ban nhân dân xã. Từ đó cho thấy, đội ngũ cán bộ cơ sở còn một số bất cập trong ý thức cập nhật thông tin pháp luật để nâng cao trình độ kiến thức pháp lý[4].
            Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay, tệ nạn tham nhũng đang tràn lan ở mọi cấp chính quyền, và nhất là ở cấp thấp, như là một loại thuế đánh vào các hoạt động kinh doanh. Ở cấp dưới, các chuyên gia từ các cán bộ, công chức thường mong dựng lên hoặc duy trì những thủ tục quan liêu, rườm rà để có cơ hội hạch sách, vòi vĩnh doanh nghiệp. Còn tham nhũng ở cấp cao thì thường không lộ liễu, nhưng nó bóp méo quy trình hoạch định chính sách và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với công quyền. Những kẻ tham nhũng đó thường coi các cơ quan nhà nước như là một thứ công cụ để tạo ra nguồn thu nhanh chóng[5].
            Như vậy, việc GDPL cho CBCCHC ở nước ta hiện nay có vai trò hết sức quan trọng, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trình độ hiểu biết pháp luật cho đội ngũ CBCCHC, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của tiến trình xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam.
3. Đặc điểm của GDPL cho CBCCHC
            GDPL cho CBCCHC là một bộ phận cấu thành GDPL nói chung, nghĩa là nó cũng phải tuân theo các quy luật chung của quá trình GDPL, phải đáp ứng các yêu cầu về chủ thể, khách thể, về nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức của quá trình này. Bên cạnh đó, GDPL cho CBCCHC cũng có những đặc điểm riêng xuất phát từ những nét đặc thù về vị trí công tác, tiêu chuẩn chuyên môn và chức năng của họ trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN.
            Thứ nhất, GDPL cho CBCCHC đòi hỏi tính chuyên ngành, chuyên nghiệp cao cả trên phương diện chủ thể GDPL và nội dung GDPL. CBCCHC là những người đang làm việc trong các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước nên họ rất cần đến kiến thức pháp luật. Bởi vì, trong NNPQ, pháp luật có một vị trí độc tôn, đòi hỏi mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả Nhà nước - người ban hành pháp luật - cũng phải đặt mình dưới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Điều đó có nghĩa, CBCCHC phải gương mẫu, đi đầu trong “sống, làm việc theo pháp luật”. Do đó, ngoài kiến thức chuyên môn, họ rất cần được trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật, nhất là kiến thức pháp luật chuyên ngành. Nhận định về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, cán bộ đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách đúng, vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[6].
            Để thực hiện tốt nhiệm vụ công vụ được giao, cán bộ, công chức trước hết phải có sự hiểu biết, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình. Cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật. Vì vậy, nội dung GDPL cho CBCCHC phải là những kiến thức pháp luật có tính hệ thống và tính chuyên ngành, chuyên nghiệp cao.
            Từ yêu cầu cao về mặt nội dung tri thức pháp luật trang bị cho CBCCHC, chủ thể GDPL cũng đòi hỏi phải có trình độ cao về pháp luật và kỹ năng sư phạm tốt. Nói cách khác, chủ thể GDPL cho CBCCHC phải là những nhà GDPL chuyên nghiệp.
            Thứ hai, GDPL cho CBCCHC đòi hỏi phải có sự lựa chọn, phân loại cụ thể, hợp lý về đối tượng tiếp nhận GDPL. Như đã phân tích ở trên, nhu cầu giải quyết các công việc chuyên môn đòi hỏi CBCCHC phải có trình độ kiến thức pháp luật chuyên ngành cao. Tuy nhiên, theo phân cấp hành chính hiện nay, CBCCHC ở nước ta đang đảm nhiệm công việc tại bốn cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau và thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực lại có những yêu cầu và văn bản pháp luật điều chỉnh, quy định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ riêng. Chính vì vậy, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, GDPL cho CBCCHC ở mỗi cấp, mỗi ngành cũng đa dạng và khác nhau. Chẳng hạn, nhu cầu thông tin, kiến thức pháp luật của CBCCHC cấp xã khác với nhu cầu thông tin, kiến thức pháp luật của cán bộ, công chức cấp huyện và cấp tỉnh; nhu cầu về thông tin pháp luật cho cán bộ, công chức ngành văn hóa - thông tin chắc chắn khác nhiều so với nhu cầu thông tin pháp luật cho cán bộ, công chức ngành tư pháp hay địa chính...
            Bên cạnh đó, vấn đề trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của các đối tượng tiếp nhận GDPL cũng khác nhau. Có những CBCCHC đã có trình độ cử nhân luật, cử nhân hành chính trước khi trở thành CBCCHC nên nhu cầu thông tin pháp luật của họ khác với nhu cầu của những người chưa được đào tạo chính quy, bài bản hoặc hiện giờ mới đang tham gia các khóa giáo dục, đào tạo pháp luật. Tính chất nông - sâu, rộng - hẹp trong truyền đạt nội dung pháp luật cho mỗi nhóm đối tượng cũng khác nhau.
            Chính vì vậy, việc sàng lọc, lựa chọn, phân loại các đối tượng tiếp nhận GDPL theo cấp, theo ngành, theo năng lực, trình độ và nhu cầu thông tin của mỗi nhóm đối tượng là vấn đề hết sức quan trọng trong tổ chức hoạt động GDPL cho CBCCHC nhằm gia tăng hiệu quả của hoạt động này, thực hiện phương châm “trang bị cái mà đối tượng của GDPL cần chứ không phải trang bị cái mà nhà GDPL có”.
            Thứ ba, GDPL cho CBCCHC đòi hỏi phải sử dụng phương pháp và hình thức tổ chức GDPL phù hợp. Về nguyên tắc, chủ thể GDPL phải căn cứ vào mục đích, mục tiêu, nội dung chương trình và đối tượng tiếp nhận GDPL để lựa chọn và sử dụng phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức GDPL cho phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. GDPL cho CBCCHC có những nét đặc thù về mục tiêu, nội dung và đối tượng nên chủ thể GDPL cần chủ động tìm ra các phương pháp và hình thức tổ chức tối ưu nhất.
            CBCCHC là những người đang làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định nên ít nhiều đã tích lũy được những kinh nghiệm thực tiễn. Phương pháp là hình thức chuyển tải nội dung. Có lẽ, phương pháp giáo dục phù hợp với CBCCHC không phải là phương pháp độc thoại, lý luận suông, mà phải là những phương pháp sinh động, hấp dẫn gắn liền với thực tiễn công vụ hành chính, như nêu tình huống, chủ đề pháp luật để họ tranh luận, thảo luận, phương pháp tọa đàm, trao đổi thông tin... Dù là sử dụng phương pháp nào thì cũng phải lấy đối tượng tiếp nhận giáo dục làm trung tâm.
            Thứ tư, GDPL cho cán bộ, công chức phải luôn gắn bó mật thiết với giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức. Cán bộ, công chức là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, là khâu then chốt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Xét cho cùng, vận hành bộ máy phải là những con người cụ thể. Vì vậy, công tác GDPL cho CBCCHC phải luôn gắn chặt với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Việc GDPL cho cán bộ, công chức không chỉ là việc giáo dục kiến thức pháp luật đơn thuần mà còn phải kết hợp cả với việc giáo dục phong cách làm việc, đạo đức, lối sống, “không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Hơn nữa, giữa hình thức GDPL và giáo dục đạo đức có mối quan hệ mật thiết với nhau, có những nét tương đồng bên cạnh tính độc lập tương đối của mỗi hình thức giáo dục. Mục đích của GDPL và giáo dục đạo đức là thiết lập trật tự pháp pháp luật và trật tự đạo đức, hình thành ở mỗi CBCCHC hành vi hợp pháp và hợp với đạo đức xã hội. Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là xã hội mà ở đó từ cán bộ, công chức cho đến công dân phải có ý thức và có lối sống phù hợp với đạo đức và tuân thủ pháp luật. Nguyên tắc chung và mục tiêu của nền pháp luật và đạo đức xã hội là phục vụ con người, vì những giá trị nhân văn của con người.
            Mặt khác, giáo dục đạo đức tạo điều kiện cần thiết để hình thành ở mỗi CBCCHC tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật. Ngược lại, GDPL cũng có vai trò to lớn đối với việc xây dựng ý thức và lối sống đạo đức. GDPL tạo ra khả năng thiết lập trong thực tiễn hàng ngày những nguyên tắc của đạo đức, củng cố những nghĩa vụ đạo đức, kích thích và làm hình thành những giá trị đạo đức mới. Như vậy, giữa GDPL và giáo dục đạo đức có sự thống nhất, hỗ trợ cho nhau nhằm đảm bảo tăng cường sự tác động lên tình cảm con người, hình thành hành vi hợp pháp và hợp đạo đức. Giáo dục đạo đức hỗ trợ cho GDPL, hướng tới cái thiện và hạn chế những tiêu cực. Chất lượng, hiệu quả của công tác GDPL cho CBCCHC chỉ có thể từng bước đạt được nếu có sự kết hợp với giáo dục đạo đức.
            Thứ năm, GDPL cho cán bộ công chức là giáo dục cho các chủ thể thực hiện GDPL cho đối tượng khác. Trong hoạt động GDPL, CBCCHC có “vai trò kép”. Họ vừa là đối tượng tiếp nhận GDPL, lại vừa là chủ thể GDPL. Trong mối quan hệ với GDPL cho chính đội ngũ CBCCHC thì họ là đối tượng tiếp nhận GDPL. Với vai trò là đối tượng tiếp nhận GDPL, họ phải đảm bảo các mục đích, yêu cầu của GDPL. Còn với vai trò là CBCCHC trong mối quan hệ với CBCCHC dưới quyền và với các tầng lớp nhân dân thì cán bộ, công chức trở thành chủ thể GDPL. Vì vậy, vai trò của họ có tác động rất lớn đến sự hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối với pháp luật. Do đặc điểm này nên trong GDPL cho CBCCHC, ngoài nội dung pháp luật chuyên ngành, còn phải chú ý cung cấp cho họ kiến thức, kỹ năng về phương pháp và hình thức GDPL, giáo dục cho CBCCHC ý thức về vai trò là “đầy tớ”, “công bộc” của dân.
            Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN, mỗi CBCCHC cần phải rèn luyện tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, xem pháp luật là cán cân công lý, coi tri thức, hiểu biết pháp luật là để thực thi nhiệm vụ và chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Ý thức pháp luật của các chủ thể này là cơ sở cho việc thực hiện, áp dụng pháp luật một cách kịp thời, đúng đắn. Hơn bất cứ hình thức giáo dục nào khác, với tư cách chủ thể GDPL, CBCCHC phải thấm nhuần phương châm “nói đi đôi với làm”; do đó, yêu cầu về trình độ kiến thức pháp luật, năng lực chuyên môn, sự gương mẫu trong phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống luôn phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Chúng ta xây dựng NNPQ XHCN trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dưới sự tác động mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, với những thành tựu phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin. Bối cảnh đó vừa là điều kiện thuận lợi vừa là thách thức to lớn đối với yêu cầu hiện đại hóa, chuyên nghiệp hóa nền công vụ của nước ta, đòi hỏi đội ngũ CBCCHC trong bộ máy nhà nước phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu biết và nắm vững pháp luật đồng thời có những đổi mới tương ứng nhằm thích nghi, đủ khả năng giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội theo định hướng XHCN.

 


[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.132.
[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
[3] Bùi Ngọc Sơn, Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền.
[4] Nguyễn Minh Tuấn, Ý thức pháp luật của công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Hà Nội, 2003.
[5] Nguyễn Đăng Dung, Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học Quốc Gia, 2008.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 7(168), tháng 4/2010)