Xã hội hóa giáo dục đại học và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đối với đại học ngoài công lập

01/03/2010

TS. LÊ QUỐC HÙNG

Đại học Đông Đô.

Xã hội hoá giáo dục là chính sách huy động mọi nguồn lực của nhân dân, của các tổ chức kinh tế - xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đầu tư vào hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp với khả năng tài chính và trình độ chuyên môn nhằm xây dựng xã hội học tập. Ở nước ta, cho đến nay đã thực hiện xã hội hoá hoạt động giáo dục tương đối rộng rãi ở mọi cấp học. Bài viết này bàn về việc xã hội hoá giáo dục ở bậc đại học và những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở đại học ngoài công lập.
Untitled_909.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Xã hội hoá giáo dục đại học
Xã hội hoá giáo dục được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân, toàn thể xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Xã hội hoá giáo dục là làm cho hoạt động giáo dục trở thành hoạt động chung của toàn xã hội. Điều 1 Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ ghi rõ: xã hội hoá hoạt động giáo dục là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân. Hàng năm, Nhà nước vẫn phải chi 18% ngân sách quốc gia cho hoạt động giáo dục đào tạo và cũng chỉ đáp ứng khoảng một nửa nhu cầu chi tiêu về giáo dục. Vì vậy, xã hội hoá giáo dục là điều kiện cần thiết và tất yếu để phát triển giáo dục và đào tạo ở nước ta. Xã hội hoá giáo dục là một trong những phương diện quan trọng của xã hội hoá hoạt động quản lý nhà nước. Xã hội hoá giáo dục là chủ trương đúng đắn mang tính chiến lược của Đảng ta thể hiện rõ nét trong Nghị quyết 02 của Ban Chấp hành trung ương khoá VIII. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục”. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành trung ương khoá IX nêu quyết tâm thực hiện giải pháp “Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, xây dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân...”. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại quy hoạch mạng lưới các trường đại học… Đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập, cần bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập... Có lộ trình cụ thể cho việc chuyển một số cơ sở giáo dục, đào tạo công lập sang dân lập, tư thục; Xoá bỏ hệ bán công; Khuyến khích thành lập mới và phát triển các trường đại học ngoài công lập, kể cả trường do nước ngoài đầu tư”. Chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng được thể chế hoá vào Hiến pháp năm 1992: Nhà nước phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác (Điều 36). Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 đã tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển giáo dục, khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…
Xã hội hoá giáo dục có một số đặc trưng sau:
-   Xã hội hoá giáo dục không có nghĩa là buông lỏng sự quản lý thống nhất của Nhà nước về giáo dục mà trái lại vai trò quản lý, định hướng, chỉ huy, điều hành, kiểm tra, giám sát của Bộ Giáo dục và đào tạo càng phải được tăng cường. Nhưng sự tăng cường vai trò quản lý, chỉ dẫn, kiểm tra, giám sát của Bộ không phải bằng cách trực tiếp can thiệp vào hoạt động cụ thể của nhà trường, mà phải thông qua các văn bản pháp luật, các quy chế quản lý. Nhà nước phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch để các cơ sở đào tạo hoạt động có hiệu quả, đảm bảo chất lượng đào tạo. Nhà nước chỉ can thiệp khi có sự vi phạm pháp luật. Xã hội hoá không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần ngân sách nhà nước, trái lại, Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó.
- Xã hội hoá giáo dục phải gắn liền với việc mở rộng dân chủ, khuyến khích, động viên việc nâng cao tinh thần tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo. Việc mở rộng dân chủ và khẳng định quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy sự tìm tòi, phát huy sáng kiến, cổ vũ tính năng động, chủ động của các tổ chức và công dân tham gia quản lý hoạt động giáo dục, góp phần làm giảm nhẹ gánh nặng quản lý của các cơ quan nhà nước, khắc phục tâm lý thụ động, phó mặc mọi công việc quản lý giáo dục cho Nhà nước của một bộ phận công dân và tổ chức, đồng thời góp phần làm cho hoạt động giáo dục thực sự là công việc của toàn xã hội.
- Xã hội hoá giáo dục là thu hút mọi tổ chức quần chúng, mọi thành phần kinh tế, mọi công dân có điều kiện tham gia đầu tư các dự án phát triển giáo dục trong khi ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục chưa đáp ứng đước yêu cầu. Xã hội hoá là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục. Xã hội hoá là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn, là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, chứ không phải là biện pháp tạm thời, chỉ có ý nghĩa tình thế, trước mắt do Nhà nước thiếu kinh phí cho hoạt động này. Khi nhân dân ta có mức thu nhập cao, ngân sách nhà nước dồi dào vẫn phải thực hiện xã hội hoá, bởi vì giáo dục là sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ phát triển không ngừng mọi nguồn lực to lớn của toàn dân. Ở mỗi địa phương, đây là cộng đồng trách nhiệm của Đảng bộ, HĐND, UBND, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của từng người dân.
- Xã hội hoá giáo dục chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở chính sách học phí, học bổng phù hợp, đồng thời đa dạng hoá các hình thức đào tạo và các loại hình nhà trường. Việc huy động dân tham gia đóng góp cho giáo dục phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, căn cứ vào mức sống và khả năng của dân ở từng vùng, từng địa phương trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội, có chính sách học phí phù hợp, đồng thời có chính sách trợ cấp xã hội và cho vay vốn để đi học. Điều chỉnh mức học phí ở các trường phổ thông tại các địa bàn thành phố, thị xã, thị trấn và vùng có thu nhập bình quân cao (trên mức thu nhập bình quân cả nước); thu học phí thấp hơn đối với vùng có thu nhập bình quân thấp (dưới mức thu nhập bình quân cả nước); miễn học phí đối với vùng sâu, vùng xa. Nâng mức học phí ở các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Cần thể chế hoá chính sách học phí vào Luật Giáo dục.
Mặt khác, Nhà nước phải quy định bằng pháp luật sự tôn trọng quyền sở hữu của nhà đầu tư. Xã hội hoá và đa dạng hoá các hình thức hoạt động giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bên cạnh việc củng cố các tổ chức của Nhà nước, cần phát triển rộng rãi các hình thức hoạt động do các tập thể hoặc các cá nhân tiến hành trong khuôn khổ chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đa dạng hoá chính là mở rộng các cơ hội cho các tầng lớp nhân dân tham gia chủ động và bình đẳng vào hoạt động giáo dục.
- Xã hội hoá hoạt động giáo dục cũng là giải pháp quan trọng để thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Công bằng xã hội không chỉ biểu hiện về mặt hưởng thụ, tức là người dân được xã hội và Nhà nước chăm lo, mà còn biểu hiện cả về mặt người dân đóng góp, cống hiến cho xã hội theo khả năng thực tế của từng người, từng địa phương. Thực hiện công bằng trong chính sách xã hội phải vận dụng các nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên; nhất thiết phải ưu tiên đối với người có công, phải trợ giúp người nghèo, vùng nghèo; người có công, có cống hiến nhiều hơn được xã hội và nhà nước chăm lo nhiều hơn. Công bằng xã hội trong việc huy động các nguồn lực của nhân dân vào các hoạt động giáo dục không phải là huy động bình quân, mà là vận dụng cách huy động và mức huy động tuỳ theo các nhóm người có điều kiện thực tế khác nhau, có mức thu nhập khác nhau. Những người thuộc diện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước được miễn, giảm phần đóng góp. Công bằng xã hội còn được thực hiện thông qua việc phát huy truyền thống “lá lành đùm lá rách”, người giàu giúp người nghèo, vùng giàu giúp vùng nghèo. Phát triển nhiều loại quỹ do nhân dân đóng góp, tự nguyện làm việc nghĩa như quỹ khuyến học, quỹ học bổng, quỹ từ thiện… Nhà nước ban hành Quy chế thành lập và quản lý các quỹ này này theo hướng phát huy khả năng tự quản, tự giám sát của những người đóng góp, thực hiện chế độ công khai hoá thu, chi.
Thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục với quan niệm đúng đắn về công bằng xã hội chính là thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối của Đảng.
Đa dạng hoá các loại hình nhà trường là một trong những hướng quan trọng để thực hiện xã hội hoá giáo dục. Khái niệm về trường tư không phải là vấn đề mới đối với nền giáo dục của nhiều nước trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam cũng vậy. Trước đây, trong kháng chiến chống Pháp chúng ta đã tổ chức trường tư thục. Trên thế giới, nhiều nước châu Á đã chọn mô hình tổ chức hệ thống giáo dục trên cơ sở phát triển các trường tư thục đại trà, hạn chế các trường công lập, nhằm mục tiêu thoả mãn phần lớn nhu cầu học tập của công chúng. Nhờ mô hình giáo dục này mà nhiều quốc gia trên thế giới như Nhật Bản và Hàn Quốc đã có nhiều thành công trong đào tạo nguồn nhân lực. Nước Nhật đã có được nhiều thế hệ những người lao động thông minh và sáng tạo, những nhà doanh nghiệp nổi tiếng, đội ngũ tri thức có trình độ cao, đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề đông đảo. Nhật Bản đã thành công trong việc vận động toàn xã hội đầu tư cho giáo dục, mở rộng cơ hội học tập cho mọi người, xây dựng một nền giáo dục rộng lớn và đa dạng trên cơ sở phát triển hệ thống trường tư. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cũng cho thấy, có được sự tăng trưởng nhanh về kinh tế trước hết là nhờ biết đầu tư hiệu quả cho giáo dục. Người ta so sánh, vào những năm 60 của thế kỷ trước, Hàn Quốc và Pakixtan đều ở trình độ phát triển như nhau, nhưng trong khi ở Pakixtan chỉ có 30% số trẻ em được vào trường tiểu học thì ở Hàn Quốc tỷ lệ đó đạt 94%. Kết quả là vào giữa những năm 80, GDP tính theo đầu người của Hàn Quốc gấp 3 lần của Pakixtan và đến năm 2001 gấp 21 lần1. Chính sách đầu tư cho giáo dục của Hàn Quốc được xác định rất rõ: Đào tạo nguồn nhân lực là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, thực hiện phương châm đào tạo “con người trọn vẹn” - con người có năng lực tự học, tự sáng tạo và có khả năng sống độc lập. Hoa Kỳ là quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Chính giáo dục đã góp phần không nhỏ đưa Hoa Kỳ trở thành cường quốc số một về khoa học, công nghệ và kinh tế như hiện nay. Một nửa số dân Hoa Kỳ trong độ tuổi từ 18 đến 25 đều vào trường cao đẳng hoặc đại học. Mục tiêu cơ bản của nền giáo dục Hoa Kỳ là phát triển tối đa năng lực của từng học sinh, cho dù năng lực của chúng có thể cao hay thấp. Theo luật liên bang, mỗi bang và các vùng phụ thuộc có trách nhiệm phát triển hệ thống giáo dục đại học của địa phương mình. Ở Hoa Kỳ không có trường do trung ương (Liên bang) quản lý. Trên thực tế, mỗi bang thường có ít nhất một trường đại học công lập, còn khoảng 60% các trường đại học ở Hoa Kỳ là trường tư, có quy chế tự quản. Dù học ở trường công hay trường tư thì người học đều phải đóng học phí và đây là nguồn tài chính quan trọng nhất của các trường đại học.
Ở hầu hết các quốc gia, chính sách huy động mọi nguồn lực cho giáo dục đều theo xu hướng mở và rất năng động. Bên cạnh nguồn ngân sách quốc gia còn có chế độ thu học phí thích ứng với từng đối tượng, khuyến khích và cho phép thu hút mọi đóng góp của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội, các nhà hảo tâm và các tổ chức quốc tế. Nhờ có các nguồn thu đa dạng đó, ngành giáo dục chủ động thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Như vậy, đa dạng hoá các nguồn lực cho giáo dục, đa dạng hoá các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục, đa dạng hoá các loại hình đào tạo… đang là xu thế quốc tế hoá trong giáo dục.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, ở nước ta đã xuất hiện hàng loạt các trường đại học dân lập, tư thục. Tất cả các cơ sở giáo dục này được gọi chung là cơ sở giáo dục ngoài công lập. Hoạt động của các cơ sở giáo dục ngoài công lập đã đóng góp một phần rất quan trọng vào sự nghiệp giáo dục của nước ta. Việc xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình giáo dục đã góp phần mở rộng cơ hội học tập cho nhân dân, thu nhận nhiều sinh viên tham gia học tập, từ đó trang bị những kiến thức cần thiết đáp ứng nhu cầu nhân lực cho xã hội. Hiện nay, cả nước có 195 trường đại học, tuyển sinh 265.000 sinh viên, trong đó 41 trường đại học dân lập, tư thục tuyển sinh 54.000 sinh viên, chiếm 21% số trường và 20% số chỉ tiêu tuyển sinh trong khi định hướng của ngành Giáo dục và đào tạo là đến năm 2010, tỷ lệ sinh viên đại học ngoài công lập phải ít nhất đạt 40%2. Điều đó cho thấy cần tạo điều kiện để các trường ngoài công lập đã được thành lập củng cố cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ giảng viên cơ hữu mới có thể thực hiện được định hướng xã hội hoá giáo dục của Đảng.
Trong khi đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, Nhà nước vẫn giữ vai trò trọng yếu trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục ở tất cả các bậc học nói chung và ở bậc đại học nói riêng. Hệ thống giáo dục đại học được mở rộng cả về ngành nghề, quy mô và loại hình đào tạo. Mạng lưới các trường đại học đã đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhu cầu học tập ngày càng tăng trong xã hội. Số lượng trường đại học đã phát triển nhanh hơn lộ trình được xác định trong Nghị quyết số 14/2005/ NQ-CP của Chính phủ ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học. Tính đến tháng 3/2009, cả nước có 195 trường đại học, trong đó có 154 trường công lập và 41 trường ngoài ngân sách3. Trong khi đó, Nghị quyết của Chính phủ đặt ra lộ trình đến năm 2010 cả nước có 171 trường đại học. Điều đó cho phép khẳng định việc thành lập các trường đại học cả công lập và tư thục trong vài năm gần đây là vội vã, không tuân thủ lộ trình mà Chính phủ đã xác định và vì thế, ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đại học. Cũng theo lộ trình, đến năm 2020 cả nước sẽ có 225 trường đại học mà hiện nay đã có 195 trường nên chúng tôi cho rằng, trong 5 năm tới không nên thành lập thêm mà cần tăng cường củng cố các trường mới thành lập về tất cả các mặt từ cơ sở vật chất đến đội ngũ giảng viên.
Nhà nước đã ban hành một hệ thống các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động các trường ngoài công lập. Điều đó chứng tỏ vai trò của các trường đại học ngoài công lập đã được khẳng định. Từ nay, ở nước ta thực hiện mô hình song song tồn tại giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập. Giáo dục ngoài công lập là một bộ phận cấu thành của hệ thống giáo dục quốc dân. Số sinh viên ngoài công lập cũng tăng dần và năm 2009 đã chiếm khoảng 20% tổng số chỉ tiêu tuyển sinh.
Tóm lại, hoạt động của hệ thống giáo dục ngoài công lập đã góp phần mở rộng cơ hội giáo dục cho mọi người với những mục tiêu, nội dung và loại hình đào tạo thích hợp với từng đối tượng, từng khu vực và từng địa phương, đồng thời huy động thêm nhiều nguồn kinh phí cho phát triển nguồn nhân lực.
2.   Những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đối với đại học ngoài công lập
Chủ trương xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập của Đảng chỉ có thể được thực hiện thông qua chất lượng đào tạo cụ thể của mỗi trường đại học ngoài công lập. Trăn trở để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo là trách nhiệm của mỗi nhà giáo có tâm huyết. Với tinh thần đó, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp nâng cao và ổn định chất lượng đào tạo đối với đại học ngoài công lập.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên và xác lập vị trí trung tâm của sinh viên trong trường
Để nâng cao và ổn định chất lượng đào tạo nhất thiết phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ giáo viên cơ hữu của trường. Người thầy có vai trò quan trọng trong việc đào tạo, rèn luyện, phát triển trí tuệ và nhân cách cho thế hệ trẻ, giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục. Chỉ số về đội ngũ giảng viên là một trong các tiêu chuẩn buộc phải có đối với một trường đại học. Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ cho phép mở trường mới, mã ngành đào tạo mới khi có đủ tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên và các điều kiện khác. Các chỉ số về đội ngũ giảng viên không chỉ là số lượng, mà còn là chất lượng và cơ cấu đội ngũ. Đội ngũ giảng dạy chất lượng cao là nhân tố cơ bản trong đảm bảo chất lượng giáo dục đại học.
Đại học ngoài công lập muốn phát triển thì trước hết phải lấy sinh viên làm trung tâm của mọi hoạt động trong trường. Tất cả vì sinh viên, đặt lợi ích của sinh viên lên trên lợi ích của nhà đầu tư. Phải trăn trở, tâm huyết với sinh viên, tìm cách giúp sinh viên tích luỹ sức lao động trí tuệ trong những năm tháng học tập tại trường để các em vững vàng lập nghiệp, tạo chỗ đứng phù hợp sau khi ra trường. Trí tuệ của sinh viên phải được chăm lo toàn diện gồm 3 yếu tố hợp thành là Trí (kỹ năng tác nghiệp nghề được đào tạo), thể (năng lực sáng tạo và sức khoẻ) và mỹ (nhân cách, biết cách xử sự trong xã hội). Muốn bảo đảm được điều đó, mỗi cán bộ giáo viên cần phải chăm lo xây dựng môi trường giáo dục trên cơ sở đoàn kết nội bộ tốt. Đoàn kết nội bộ phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi cán bộ nhân viên cơ hữu, bất kể là chức danh gì. Đoàn kết nội bộ là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo.
Hiện nay, một số nhà quản lý băn khoăn trước việc phân hoá cấp độ về chất lượng giáo dục giữa các trường đại học. Chúng tôi cho rằng, việc phân tầng chất lượng là thực tế hiển nhiên ở tất cả các nước trên thế giới.
Các nhà quản lý giáo dục đại học hiện nay đang tranh luận một vấn đề khá nhạy cảm và hóc búa: mối quan hệ giữa chất lượng và số lượng. Một số cho rằng, cương quyết không hy sinh chất lượng cho số lượng, nghĩa là chỉ tuyển những học sinh học giỏi vào đại học, tuyển không đủ số lượng thì thôi. Chúng tôi cho rằng, nhìn nhận vấn đề này như thế là quá cứng nhắc, hơn nữa, xét trên phương diện nào đó là thiếu công bằng trong cơ hội học tập ở bậc đại học. Hạn chế số lượng để tập trung cho chất lượng là biện pháp cổ điển, bởi lẽ số sinh viên đại học nước ta chưa đủ so với yêu cầu nguồn nhân lực. Không phải giảm số lượng thì mặc nhiên có chất lượng, và đôi khi phải tăng số lượng thì mới có chất lượng. Cần chuẩn hoá chất lượng trên cơ sở phân tầng và phải thừa nhận rằng, sinh viên tốt nghiệp đại học ở bất kỳ nước nào cũng có nhiều tầng chất lượng.
- Xây dựng cơ sở vật chất
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, bảo đảm điều kiện giảng dạy tốt nhất cho giáo viên. Mặc dù đã có quy định các trường phải sử dụng bao nhiêu phần trăm nguồn thu từ học phí để đầu tư vào cơ  sở vật chất phục vụ giảng dạy, nhưng xem ra việc thực hiện và giám sát vẫn còn khá lỏng lẻo nên cơ sở vật chất của nhiều trường hiện nay còn xa mới đạt chuẩn. Không có cơ sở vật chất đủ chuẩn mực không thể gọi là trường, do vậy, muốn có một trường đại học thì không thể coi nhẹ đầu tư cơ sở vật chất. Để có trường phải có đất. Cần thực hiện chế độ ưu đãi trong việc sử dụng đất để xây trường như đã quy định tại Điều 103 Luật Giáo dục. Đây là vấn đề cần được các nhà quản lý lưu tâm hơn nữa cho quá trình thúc đẩy xã hội hoá giáo dục. Giảng đường chật chội, thuê mượn, phòng thí nghiệm lạc hậu và thư viện nghèo nàn không thể là nơi đào tạo có chất lượng, nhất là những ngành công nghệ tiên tiến.
- Xây dựng chương trình, giáo trình
Ngoài những yêu cầu chung, các trường đại học ngoài công lập được thành lập và xây dựng đúng vào giai đoạn nền giáo dục đại học Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang phải đổi mới nhiều mặt. Để đáp ứng nhu cầu đổi mới đó và đặc biệt, để nâng cao chất lượng đào tạo, vấn đề cần quan tâm đầu tiên là phải khẩn trương đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo. Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý của người học.
Nội dung, phương pháp giáo dục phải được thể hiện thành chương trình giáo dục; chương trình giáo dục phải được cụ thể hoá thành sách giáo khoa, giáo trình. Chương trình giáo dục, sách giáo khoa, giáo trình phải phù hợp với mục tiêu giáo dục của từng bậc học, cấp học và từng trình độ đào tạo, bảo đảm tính ổn định và tính thống nhất. Chuẩn hoá chương trình và giáo trình là xương sống của giáo dục đại học tại tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt giàu, nghèo, phát triển hay đang phát triển. Chuẩn hoá chương trình và giáo trình là cơ sở để các trường đại học ngoài công lập nâng cao chất lượng đào tạo. Bộ Giáo dục và đào tạo cần định sớm một lịch trình cho các trường đại học ngoài công lập xây dựng chương trình tổng thể của từng trường, từng ngành và từng môn học. Mỗi trường cần xác lập cơ chế quản lý giáo trình, giáo án, đề cương bài giảng, giáo trình tham khảo. Cần xúc tiến biên soạn giáo trình riêng của trường và phát hành giáo trình cho sinh viên khi đã được Hội đồng khoa học và đào tạo duyệt. Nghiên cứu áp dụng xu thế giáo dục hiện đại: lấy sinh viên làm trung tâm, nghĩa là phải chú ý đến đặc điểm, quyền lợi của sinh viên, phải tổ chức cho sinh viên hoạt động một cách tích cực và sáng tạo. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
- Dân chủ hoá hoạt động ở trường ngoài công lập
Ngay từ năm 1998, Chính phủ đã ra Nghị định ban hành Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở cho phường, xã và cơ quan hành chính. Việc thực hiện dân chủ ở trường học là vô cùng cần thiết do yêu cầu của quá trình thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Bộ Giáo dục và đào tạo từ đầu năm 2000 cũng đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Trường ngoài công lập là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo chế độ sở hữu tập thể, vì vậy trong bản Quy chế dân chủ cần nhấn mạnh đến dân chủ trực tiếp. Thông qua dân chủ trực tiếp của cán bộ, giảng viên, nhân viên cơ hữu thì Hội đồng quản trị sẽ vững mạnh vì thường xuyên nắm bắt được ý nguyện của người lao động để thực hiện thật chuẩn mực những việc quản lý hàng ngày, và ngược lại, Hội đồng quản trị vững mạnh, đoàn kết thì bảo đảm được đầy đủ các điều kiện thuận lợi cho người lao động thực hiện quyền dân chủ trực tiếp. Phát huy dân chủ trực tiếp là vấn đề có tầm chiến lược để trường ngoài công lập phát triển bền vững, tạo lập được chỗ đứng xứng đáng trong hệ thống các trường đại học của nước nhà.
- Hoàn thiện cơ chế giám sát của Nhà nước đối với đại học
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Giám sát là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không”. Như vậy, giám sát bao gồm hai hành vi là theo dõi và kiểm tra. Trong hoạt động giám sát, theo dõi và kiểm tra là hai công việc nối tiếp nhau. Trên cơ sở kết quả của giám sát, người ta sẽ thực hiện việc kiểm định đào tạo. Kiểm định đào tạo là một quá trình xác nhận tình trạng một cơ sở đào tạo hoặc một chương trình đào tạo sau khi đã kiểm tra nhằm công nhận cơ sở hoặc chương trình đó về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, tính toàn vẹn và chất lượng đào tạo, làm cho cộng đồng giáo dục và công chúng tin cậy ở cơ sở đào tạo và chương trình đó. Kiểm định đào tạo có chức năng quan trọng là khuyến khích mọi cố gắng để hướng tới việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo.
Sự phát triển nhanh của các khu vực giáo dục đại học đòi hỏi Nhà nước cần có một chính sách đối xử bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập, đồng thời phải quan tâm giám sát về chất lượng và tính hợp lý của các chương trình đào tạo. Bộ Giáo dục và đào tạo phải xiết chặt công tác kiểm tra và chỉ khi đạt được tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất mới cho phép tuyển sinh.
Với một hệ thống giáo dục đại học cả công lập và ngoài công lập song song tồn tại, nếu Chính phủ thực hiện một phương thức quản lý nhất loạt như nhau liệu có thực tiễn và hiệu quả không? Tư duy quản lý đối với khu vực giáo dục ngoài công lập không thể dựa vào mệnh lệnh hành chính dơn thuần mà có lẽ, phải dựa vào khuyến khích tài chính hoặc dựa vào sự phản ánh từ người sử dụng sinh viên tốt nghiệp để thực hiện.
Cần nhận thức đầy đủ tính quy luật hay cơ chế tự vận động của khu vực xã hội hoá để sử dụng cơ chế này trong việc giám sát và định hướng chúng đến mục tiêu mong muốn về chất lượng và hiệu quả. Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát khu vực giáo dục ngoài công lập thể hiện ở chỗ biết sử dụng các công cụ quản lý tác động vào nó thông qua cơ chế vốn có của nó và hướng nó vận động theo các mục tiêu mong muốn.
Cơ chế giám sát khu vực giáo dục xã hội hoá một mặt phải thừa nhận tính khách quan của các đặc trưng vốn có của nó và mặt khác phải biết lựa chọn phương thức tác động thích hợp mới vận hành có hiệu quả chính sách xã hội hoá giáo dục trong thực tiễn. Mô hình giám sát thích hợp đòi hỏi phải khẳng định vai trò của các cơ quan và các cấp khác nhau thông qua việc tách bạch giữa việc hoạch định chính sách với chức năng quản lý vĩ mô. Cần phải có một cơ quan cấp vụ quản lý khu vực xã hội hoá giáo dục và quản lý đại học ngoài công lập. Việc thành lập Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập đáng được khích lệ. Hiệp hội cần hoạt động tích cực hơn nữa cho quá trình thực hiện xã hội hoá giáo dục.
Để có được một phương thức giám sát và điều phối hiệu quả, cần quan tâm hoàn thiện hành lang pháp luật về giáo dục nói chung và hệ thống các văn bản pháp quy điều chỉnh lĩnh vực xã hội hoá giáo dục nói riêng. Luật Giáo dục và các văn bản dưới luật, các điều lệ, các quy chế nội bộ của các trường ngoài công lập cần phải được hợp thành một thể thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo lẫn nhau, và phải được xây dựng trên tinh thần đề cao hơn nữa quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội của trường đại học.
Bộ Giáo dục và đào tạo là người chỉ huy, bẻ lái và các trường là những tay chèo của con thuyền giáo dục đại học. Các tay chèo phải được tự chủ để chèo đủ lực và đúng hướng, còn người chỉ huy có trách nhiệm kiểm tra và uốn nắn các tay chèo, loại bỏ tay chèo nào không hoàn thành nhiệm vụ. Làm được như thế thì chắc chắn con thuyền đại học sẽ đến bến.
Với năm giải pháp cụ thể trên, chắc chắn rằng chất lượng sinh viên tốt nghiệp đại học của chúng ta sẽ không thua kém so với các nước trong khu vực.

 

(1) Trương Giang Long, Đào tạo nguồn nhân lực qua kinh nghiệm phát triển giáo dục ở một số nước, Tạp chí Cộng sản, số 13, tháng 7/2004, tr.72.
(2) Phát biểu của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại Lễ ra mắt Hiệp hội các trường đại học dân lập ngày 9/9/2004.
(3) Xem Những điều cần biết về tuyển sinh đại học và cao đẳng năm 2009 của Bộ Giáo dục và đào tạo, Nxb. Giáo dục. H. 2009.

 


(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 6(167), tháng 3/2010)