Vì một biên giới đất liền Việt - Trung hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển

01/03/2010

PGS.TS. NGUYỄN HỒNG THAO

Đại học Quốc gia Hà Nội

Tiếp theo Tuyên bố chung ngày 31/12/2008, về hoàn thành Phân giới cắm mốc Việt - Trung, ngày 19/11/2009, được sự uỷ quyền của Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHND Trung Hoa, hai Thứ trưởng ngoại giao Hồ Xuân Sơn và Vũ Đại Vỹ đã ký 3 văn kiện pháp lý quan trọng: Nghị định thư về Phân giới cắm mốc (PGCM), Hiệp định về quy chế quản lý biên giới; Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Các văn bản này sẽ có hiệu lực sau khi hai Bên thông báo cho nhau bằng văn bản qua đường ngoại giao về việc đã hoàn thành các thủ tục pháp lý trong nước và ngày văn bản thông báo cuối cùng được gửi đi sẽ là ngày bắt đầu tính hiệu lực, nếu không có quy định khác. Nghị định thư PGCM, bản đồ và các Phụ lục đính kèm sẽ được đăng ký và nộp lưu chiểu lên Liên hợp quốc. Ước mơ ngàn đời của các thế hệ Việt - Trung “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Sách trời định phận rõ non sông” đã được thực hiện bằng một đường biên giới hoàn chỉnh từ Đông sang Tây, được đánh dấu bằng các cột mốc hiện đại, được xác định chính xác bằng các biện pháp kỹ thuật cao (hệ thống định vị toàn cầu GPS, hệ thống thông tin địa lý GIS, giao cảm RS), ghi nhận bằng các bản đồ và mô tả chi tiết hướng đi.
Đường biên giới Việt - Trung từ thế kỷ thứ X là đường biên giới vùng, mang tính tập quán, chưa được xác định bằng các văn bản pháp lý quốc tế. Với Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895, Pháp và Nhà Thanh đã xác định biên giới, đánh dấu bằng 314 cột mốc, ghi nhận trên bản đồ tỷ lệ 100.000. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khu vực còn để trắng, chưa cắm mốc, chưa được giải quyết triệt để như thác Bản Giốc, cửa sông Bắc Luân, nhiều cột mốc qua thời gian và chiến tranh đã bị hư hại, dịch chuyển, địa hình tại thực địa nhiều nơi không phù hợp với bản đồ gây khó khăn cho việc quản lý. Đường biên giới được thể hiện trong Nghị định thư PGCM và các bản đồ, phụ lục kèm theo ký trong tháng 11/2009 là thành quả của hơn nửa thế kỷ quan tâm giải quyết của Đảng và Chính phủ hai nước (tính từ ngày 2/11/1957, Ban Bí thư­ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi thư­ cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đề nghị hai bên giải quyết vấn đề biên giới trên cơ sở tôn trọng Đường biên giới lịch sử do hai Công ước Pháp - Thanh 1887 và 1895 để lại và mọi tranh chấp có thể bằng đàm phán và thư tháng 4/1958 của Trung ­ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý), là 35 năm với 4 đợt đàm phán lớn (từ 1974 đến 2009), trong đó đợt đàm phán cuối cùng dài nhất với 18 năm nỗ lực liên tục trên đàm phán và thực địa nhằm hoạch định và PGCM biên giới Việt Nam – Trung Quốc (1991 – 1999: đàm phán, ký Hiệp ước biên giới trên đất liền; 2000 – 2008 đàm phán, phân giới, cắm mốc trên thực địa, 2008 - 2009 đàm phán xây dựng Nghị định thư PGCM). Toàn bộ đường biên giới dài 1.449,566km, (trong đó đường biên giới trên đất liền là 1.065,652km, đường biên giới nước là 383,914km) được đánh dấu bằng 1971 cột mốc cho 1378 vị trí mốc chính và 402 vị trí mốc phụ (một vị trí trên thực địa có thể được đánh dấu bằng 1, 2 hoặc 3 mốc tuỳ theo quy định và thực địa). Mốc số 0 là giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc là mốc lớn được làm bằng đá hoa cương, có ba mặt, gắn quốc huy của ba nước, đặt trên đỉnh núi Khoan La San (Shi Ceng Da Shan), có độ cao là 1.866,23m, tọa độ địa lý 22º 24' 02,295" vĩ độ Bắc, 102º 08' 38,109" kinh độ Đông, theo Hiệp định về ngã ba biên giới năm 2007 ký giữa CHXHCN Việt Nam, CHDCND Lào và CHND Trung Hoa. Mốc cuối cùng 1378 là mốc đơn, loại trung, làm bằng đá hoa cương, đặt trên phía Đông Nam bãi Dậu Gót (Heng Shi Sha Zhou), có độ cao là - 1,01m, tọa độ địa lý 21º 30' 15,244''vĩ độ Bắc, 108º 04' 08,974''kinh độ Đông. Mốc được thiết kế đặt trên đế mốc bằng beton hình tròn cao gần 10 m bảo đảm khi thuỷ triều lên (4-5m), mốc vẫn nổi trên mặt nước. Từ mốc cuối cùng này biên giới theo trung tuyến sông kéo đến giới điểm 62 và cũng là điểm bắt đầu của biên giới biển trong Vịnh Bắc Bộ. Mô tả chi tiết hướng đi của đường biên giới được ghi ở Phần II của Nghị định thư PGCM, đồng thời đường biên giới được thể hiện trên “Bản đồ biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, tỷ lệ 1: 50.000. Nghị định thư PGCM cũng lần đầu tiên quy định rõ ràng các cồn bãi trên sông suối quy thuộc giữa hai nước. Phù hợp với luật pháp quốc tế, sau khi Nghị định thư này có hiệu lực, bất kỳ sự thay đổi của địa hình, sông suối thực địa đều không làm thay đổi vị trí của đường biên giới đã phân giới, trừ khi hai Bên có thỏa thuận khác. Đường biên giới sẽ được tiến hành kiểm tra liên hợp 10 năm một lần để bảo dưỡng duy trì sửa chữa mốc giới. Hai khu vực thác Bản Giốc và Cửa sông Bắc Luân sẽ có quy chế pháp lý đặc thù. Nhằm tạo sự thuận lợi cho tàu thuyền hai bên qua lại khu vực cửa sông Bắc Luân và hợp tác khai thác tiềm năng du lịch khu vực thác Bản Giốc, hai bên tiến hành đàm phán và sẽ ký kết Hiệp định về quy chế tự do đi lại của tàu thuyền ở khu vực cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác khai thác tiềm năng du lịch thác Bản Giốc trong năm 2010.
Nghị định thư và các văn kiện đính kèm gồm bộ bản đồ địa hình khu vực biên giới Việt - Trung, có thể hiện đường biên giới và vị trí các mốc giới (35 mảnh); tập "Bảng đăng ký mốc giới"; tập "Bảng toạ độ, độ cao mốc giới" và tập "Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên sông suối biên giới" có khối lượng khoảng hơn 2.200 trang văn bản. Đây là Hiệp định biên giới đầy đủ nhất, lớn nhất mà Việt Nam ký với một nước láng giềng trong lịch sử của mình.
Tiếp theo Nghị định thư PGCM, việc ký chính thức Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu mở đầu cho thời kỳ mới trong quản lý biên giới hai nước. Hai văn kiện này sau khi có hiệu lực sẽ thay thế "Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa" ký ngày 7/11/1991. Hiệp định về cửa khẩu và quản lý cửa khẩu quy định rõ hệ thống cửa khẩu song phương và cửa khẩu quốc tế cùng chế độ pháp lý của chúng. Hai bên xác nhận 9 cặp cửa khẩu quốc tế đã được mở trên vùng biên giới gồm Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà, Lào Cai - Hà Khẩu (đường bộ), Lào Cai - Hà Khẩu (đường sắt), Thanh Thủy - Thiên Bảo, Trà Lĩnh - Long Bang, Tà Lùng - Thủy Khẩu, Đồng Đăng - Bằng Tường (đường sắt), Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hưng và tên 13 cửa khẩu khác sẽ được mở khi có đủ điều kiện, thời gian và thể thức mở cụ thể sẽ do hai Bên thoả thuận qua đường ngoại giao. Hiệp định quy chế quản lý biên giới với 11 Chương và 54 Điều quy định cụ thể nội dung các hoạt động trên biên giới, các công trình biên giới, chế độ qua lại biên giới, chế độ kiểm tra, hợp tác giải quyết các vụ việc biên giới. Hiệp định đã tiếp thu các kinh nghiệm quản lý biên giới giữa hai nước trong thời gian qua, các Hiệp định quy chế quản lý biên giới hai nước đã ký với các nước láng giềng như Hiệp định quy chế quản lý biên giới Việt - Lào 1977, Hiệp định quy chế quản lý biên giới  Trung - Nga 2008. Nội dung của Hiệp định mang tính hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu mới, đặc biệt các quy định mới về cơ chế tổ chức quản lý thông qua các Đại diện biên giới.
Ngoài ý nghĩa lần đầu tiên xác định rõ ràng một đường biên giới giữa hai nước nêu trên, việc ký kết 3 văn kiện lần này đã góp phần củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác truyền thống Việt - Trung. Như đánh giá của Ban đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã viết trong Tạp chí Thế giới đương đại số 4/2009: “Trong thế kỷ XX, quan hệ này đã một thời xấu đi, trong đó tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến những căng thẳng trong quan hệ song phương. Vì thế việc giải quyết ổn thoả vấn đề biên giới, kết thúc lịch sử “có biên không có giới”, xây dựng biên giới Trung - Việt thành biên giới hoà bình ổn định lâu dài không những là nguyện vọng tha thiết của nhân dân hai nước, mà còn là vấn đề lớn trong quá trình hai nước giải quyết đầu tiên và có được bước đột phá triệt để kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay”. Hoàn thành PGCM và ký kết các văn bản pháp lý quản lý biên giới đất liền cho thấy mối quan hệ láng giềng đoàn kết hữu nghị giữa hai nước đã bước thêm một bước vững chắc trên tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai và trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Hai trong ba vấn đề biên giới do lịch sử để lại trong quan hệ Việt – Trung là đường biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ đã được giải quyết. Các bài học trong giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ và biên giới đất liền sẽ là kinh nghiệm quý báu cho hai nước cũng như các nước có liên quan hợp tác tìm một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề biển Đông trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển của Liên hợp quốc năm 1982.
Các Hiệp định này tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chức năng của cả hai Bên tiến hành quản lý biên giới một cách khoa học, hiệu quả, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, ngăn ngừa hiện tượng xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, và các vi phạm khác do thiếu hiểu biết về đường biên giới. Việc thực hiện 3 văn kiện sẽ mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, tạo điều kiện cho các địa phương hai bên biên giới mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị. Năm 1991 kim ngạch thương mại Việt – Trung chỉ chiếm 30 triệu USD. Năm 2008 trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế, kim ngạch hai nước đạt gần 20 tỷ USD, tăng 600 lần trong 17 năm. Một đường biên giới ổn định sẽ tạo điều kiện cho hai nước thực hiện các kế hoạch hợp tác phát triển kinh tế lớn hơn như Dự án đường cao tốc Vân Nam – Lào Cai – Xuyên Á, chương trình một trục hai cánh, Vịnh Bắc Bộ mở rộng...
Việc ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc 1999, Nghị định thư về Phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới; Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc 2009. Các Hiệp định phân định biển Việt – Thái 1997, Hiệp định về khai thác chung Việt - Malaysia 1992, phân định thềm lục địa Việt - Indonesia 2003, Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam – Cămpuchia năm 1985 ký ngày 10/10/2005, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ 2000, hoạch định biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc 1999, Nghị định thư về Phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới; Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc 2009 cho thấy thiện chí và quyết tâm của Việt Nam sẵn sàng giải quyết mọi tranh chấp về biên giới lãnh thổ, các vùng biển và thềm lục địa với các nước láng giềng trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Việc hoàn thành các văn kiện trên là món quà có ý nghĩa trước thềm năm 2010, một ngàn năm Thăng Long Hà Nội và 60 năm quan hệ ngoại giao Trung - Việt, “năm hữu nghị Trung Quốc - Việt Nam”, đóng góp yêu cầu giữ gìn hoà bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á, cũng như trong phạm vi thế giới.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 5(166), tháng 3/2010)