Tái cấu trúc nền kinh tế

01/02/2010

GS,TSKH. ĐỖ VĂN ĐIỂN

Học viện hành chính, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

Trong báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội khóa 12 kỳ họp thứ 6 có nêu vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế. Vấn đề không mới. Đó là việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Trong lý luận quản lý Nhà nước có đề cập đến các nội hàm cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế quốc dân, cơ hội cho Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế và con đường thực hiện sự can thiệp đó. Bài viết này tập trung khai thác các nội hàm nói trên từ thực tế đất nước nhiều năm qua, hy vọng gọi ý cho việc phấn đấu đạt mục tiêu chung.
 Untitled_926.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Một số cách tiếp cận về lý luận cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế quốc dân
 1.1. Theo các yếu tố cấu thành hoạt động kinh tế
a. Bộ phận đầu vào
- Các yếu tố vật chất cho hoạt động kinh tế như nguồn nguyên nhiên vật liệu, thiết bị máy móc, lao động, thông tin khoa học kinh tế chính trị, xã hội . . .;
- Các yếu tố cấu thành môi trường tự nhiên, xã hội.
b. Bộ phận đầu ra:
- Đầu ra tích cực, có ích cho con người như sản phẩm, dịch vụ, việc làm, thu nhập, sự ổn định đời sống và các tác động dây chuyền khác;
- Đầu ra tiêu cực như các chất phế thải của sản xuất, các tệ nạn xã hội do kinh tế mà ra.
c. Bộ phận hộp đen: Đó chính là cơ sở vật chất, kỹ thuật, là thực lực của nền kinh tế.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế: Hệ thống máy móc thiết bị, công trình kiến trúc, hệ thống kết cấu hạ tầng chung của nền kinh tế;
- Lực lượng lao động có trong nền kinh tế đó;
- Mô hình tổ chức vĩ mô lực lượng nói trên: phân công, hiệp tác, phân bố lực lượng sản xuất;
- Lực lượng quản lý, vận hành nền kinh tế;
Thực lực trình độ tổ chức, quản lý và thực tế hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của đầu ra. Việc tái cấu trúc nền kinh tế cũng là một trong những sản phẩm đầu ra ấy.
1.2. Theo các loại chủ thể hoạt động kinh tế:
Chủ thể hoạt động kinh tế thị trường chính là người mua và người bán.
a. Các doanh nghiệp:
- Quan hệ với chủ thể cùng loại để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh khép kín;
- Quan hệ với các chủ thể khác loại: Về nguồn đầu vào và đầu ra.
b. Các hộ tiêu dùng:
- Đối tác đầu vào về vốn và lao động;
- Đối tác đầu ra: Tiếp nhận hàng hóa dịch vụ, chịu ô nhiễm môi trường, tiếng ồn do doanh nghiệp tạo ra.
c. Chính phủ
- Người đại diện tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ công. Ví dụ: Đại diện tiêu dùng vật liệu xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, tiêu dùng quân trang, quân khí, tiêu dùng văn phòng phẩm phục vụ quản lý Nhà nước. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế văn hóa, tình hình chính trị, quốc phòng, các khoản tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ công trên luôn có sự biến đổi về cơ cấu, tỷ trọng nhưng bao giờ cũng phải có. Chính phủ là người đại diện cho tiêu dùng: chi ngân sách để thanh toán các khoản nói trên;
- Người đại diện đầu vào của một số yếu tố cần cho quá trình kinh tế: Chủ tài nguyên, chủ nguồn vốn thuộc quỹ tiền tệ quốc gia (ngân sách). Chính phủ xuất nguồn lực đó như một chủ thể kinh tế, các chủ thể khác sử dụng chúng vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ.
Đáng lưu ý là với vai trò đại diện đầu vào và đại diện tiêu dùng, khác với các chủ thể khác, chủ thể Chính phủ có thể nắm đầu vào, Chính phủ có thể cấm, điều tiết, hạn chế, hướng dẫn sản xuất một số hàng hóa dịch vụ cần thiết.
- Hướng dẫn tiêu dùng của toàn xã hội theo hướng tối ưu. Ví dụ:
Về nhà ở: Nhà nước có thể xây dựng các chung cư hiện đại, định giá hợp lý khiến cho dân chúng không ai mua đất làm nhà cao tầng hình ống mà chuyển sang mua căn hộ của Nhà nước rẻ hơn, bền, an toàn, vệ sinh hơn, giải tỏa được cảnh sống ổ chuột, ô nhiễm môi trường, giải tỏa các cơn sốt đất.
Về giao thông: Nhà nước có thể tổ chức tốt mạng lưới giao thông công cộng thay cho việc sử dụng xe máy tràn lan của công dân; thông qua con đường ngân hàng, tín dụng bằng cách kích thích tối đa lợi ích, Nhà nước huy động hết số tiền dự định mua xe máy cho giao thông nội đô. Qua đó, Chính phủ xây dựng hệ thống giao thông công cộng nội đô thật tốt, hơn hẳn giao thông xe máy về mọi mặt an toàn, vệ sinh, nhanh chóng, thuận tiện, giá cước rẻ. Đồng thời cũng giải quyết vấn đề ùn tắc giao thông, giảm thiểu tốt hơn tình trạng ô nhiễm môi trường thành phố và lượng nhiên liệu dùng cho giao thông cũng giảm đi, người đi đường cũng an toàn, không bị mưa nắng mà vẫn nhanh chóng, an toàn.
Về sinh hoạt văn hóa: Nhà nước tiến hành phủ sóng tối đa truyền thanh, truyền hình với chất lượng cao, đầu tư xây dựng các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp chất lượng cao, xây dựng hệ thống cung văn hóa, nhà hát hiện đại đủ sức chinh phục công chúng văn hóa, nghệ thuật, lôi kéo các khán thính giả về với lối sống văn hóa lành mạnh, giữ vững truyền thống dân tộc.
Tóm lại, bằng tiêu dùng của Chính phủ, Nhà nước có thể điều tiết sản xuất xã hội. Là một khách hàng lớn, tiêu dùng của Chính phủ chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng cầu.
1.3. Theo một số giác độ khác:
Cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế quốc dân gồm các khâu, các ngành, các nguồn lực tạo ra của cải vật chất.
- Theo các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, lưu thông, tiêu dùng;
- Theo các ngành cấu thành nền kinh tế quốc dân: nông nghiệp – công nghiệp - xây dựng- giao thông vận tải . . .;
- Theo các nguồn lực tạo ra của cải vật chất: tài nguyên - kết cấu hạ tầng - dự trữ quốc gia - doanh nghiệp.
Ở các nước theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, điển hình là Liên Xô (cũ), cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế chú trọng đến tỷ trọng sở hữu Nhà nước về nguồn vốn và của cải quốc dân.
Con đường thực hiện sự can thiệp của Nhà nước đối với cấu trúc vĩ mô của nền kinh tế chính là chuyển đổi mô hình tăng trưởng bằng các chính sách và đặc biệt là các chiến lược.
Chính sách thực chất là chủ trương tương đối dài hạn của Nhà nước nhưng thường hướng vào xử lý những vấn đề, những lĩnh vực bức xúc cần phải giải quyết trong mỗi chặng đường phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chính sách cơ cấu kinh tế. Đó là sản phẩm chủ quan của người quản lý thực hiện ý đồ và quyền lực của mình nhưng phải tương hợp với thực tế khách quan. Ví dụ điển hình là Chính sách cơ cấu hay Chính sách công nghiệp mới của Nhật Bản.
Liên hiệp quốc sau khi được thành lập 24/10/1945 đã ra lời kêu gọi các quốc gia cần tập trung xây dựng chiến lược cho những hoạt động vì mục tiêu kinh tế để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội sau cuộc đại suy thoái và hủy diệt của chiến tranh. Các quốc gia trong khu vực và thế giới đều có những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội rất ấn tượng như: Trung Quốc có chiến lược về công nghiệp hóa, chiến lược tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu với thời hạn 15 năm, Hàn Quốc có chiến lược phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao; Đài Loan có chiến lược phát triển các ngành công nghiệp có công nghệ cao; Singapore có chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp tác với các nước; Malaixia chuyển từ chiến lược thay thế nhập khẩu sang chiến lược hướng về xuất khẩu... Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đúc kết vai trò của chiến lược trong quản lý vĩ mô nền kinh tế theo hướng hội nhập vào nền kinh tế thị trường khu vực và toàn cầu, đồng thời khuyến cáo mạnh mẽ các quốc gia cần quản lý sử dụng có hiệu quả hơn loại công cụ quản lý kinh tế - xã hội vĩ mô hết sức tiện ích này. Đối với Việt Nam, sau chiến tranh đáng lưu ý là cho đến nay vẫn có 2 luồng ý kiến tư vấn: Việt Nam nên đi theo con đường của các nước Đông Nam Á hay con đường của các nước Đông Bắc Á? Theo chúng tôi, ta đã cố gắng thực hiện cả hai: Lúc đầu là tự túc lương thực với 3 chương trình: lương thực, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu sau đó (sau Đại hội VIII nền kinh tế cơ bản đã thoát ra khỏi khủng hoảng) thì đi theo con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa - phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
2. Một số nội dung chính trong Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội, kỳ họp thứ 6 (tháng 11/2009)
2.1. Cơ cấu kinh tế ngành là nòng cốt:
Nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ thực hiện hai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bao gồm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và 10 năm đổi mới (trong đó con số kế hoạch là nguyện vọng chủ quan của chúng ta)
 
Bảng 1- Cơ cấu kinh tế (% GDP )
 
 
Năm 1995
    Năm
2000
     Năm
2005
    Năm
2010
 
 
 
K.hoạch
T.hiện
K.hoạch
T.hiện
K.hoạch
T.hiện
Nông lâm ngư nghiệp
 27,2
19 – 20
   24,3
20 – 21
   20,9
16 - 17
   . . .
Công nghiệp xây dựng
 28,7
34 – 35
   36,6
38 – 39
   41
40 - 41
   . . .
Dịch vụ
 44,1
45 – 46
   39,1
41 – 42
   38,1
42 – 43
   . . .
 
 
100,0
 
 
 
 100,0
 
 
 
 100,0
 
 
 
Nguyện vọng chủ quan chúng ta muốn mau chóng giảm tỷ trọng nông lâm thủy sản xuống (đặc biệt là kế hoạch năm 2000), nâng tỷ trọng công nghiệp xây dựng và dịch vụ lên. Song thực tế, mong muốn đó không đạt được, tuy công nghiệp và xây dựng có lạc quan hơn - thường vượt kế hoạch.
Tái cấu trúc nền kinh tế không chỉ là thay đổi tỷ trọng các ngành kinh tế quốc dân mà phải thay đổi cơ cấu trong nội bộ từng ngành để phát triển ngành đó.
Báo cáo của Chính phủ trong giải pháp lớn đầu tiên về phát triển kinh tế xã hội năm 2010 có ghi: “Khẩn trương xây dựng đề án và thực hiện một bước tái cấu trúc nền kinh tế” đã phác họa phương hướng khá cụ thể cho từng ngành loại hình sản xuất. Trước hết, chính ngành công nghiệp “phải chuyển dần từ công nghiệp gia công lắp ráp có giá trị gia tăng thấp sang công nghiệp chế tạo, phát triển công nghiệp tạo mẫu trong các ngành có lợi thế để tham gia vào các công đoạn có giá trị gia tăng cao có lợi nhuận lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, từng bước hình thành các cụm, nhóm sản phẩm...” thông qua “điều chỉnh lại cơ cấu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực chế biến, chế tạo, các lĩnh vực công nghệ cao, tạo ra năng lực xuất khẩu mới. Hiện đại hóa ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiên trong khu vực, nâng cao năng lực, công nghiệp xây lắp, hình thành các đơn vị xây lắp mạnh, đáp ứng nhu cầu trong nước và đấu thầu quốc tế”.
Còn về dịch vụ, nhân đây cũng xin lưu ý nhắc lại rằng tỷ trọng của ngành này đã liên tục giảm 9 năm liền, từ năm 1996 đến năm 2004, và năm 2005 mới đạt 38,1% GDP. Còn nhớ, tỷ trọng dịch vụ thấp đã là một khó khăn cho Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới lúc bấy giờ. Với cơ cấu kinh tế như thế, chúng ta chỉ tương đương như các nước Đông Nam Á vào những năm 1980 và như thế, chúng ta đã chậm 1/4 thế kỷ nếu chỉ xét riêng về khía cạnh này. Nguyên nhân chậm trễ, suy cho đến cùng cũng là kinh tế kém phát triển, năng suất lao động nông nghiệp quá thấp – chỉ bằng 1/8 so với năng suất lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, không thể dễ dàng nhanh chóng rút lao động từ nông nghiệp ra được.
Nguyên nhân chậm trễ, suy cho đến cùng cũng là kinh tế kém phát triển, năng suất lao động nông nghiệp quá thấp – chỉ bằng 1/8 so với năng suất lao động trong công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, không thể dễ dàng nhanh chóng rút lao động từ nông nghiệp ra được.
Mặt khác, quan trọng hơn là để phát triển công nghiệp và dịch vụ cần phải có vốn, kể cả vốn cho bản thân nông nghiệp. Cái khó của chúng ta là chỗ đó. Để giải quyết tình trạng này, phải làm sao tạo được bước phát triển căn bản trong nông nghiệp. Bài học của Trung Quốc trong những năm cải cách mở cửa và cho tới mãi sau này vẫn là hết sức chú trọng phát triển nông nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên, trong báo cáo của Chính phủ đã khẳng định: “Trong khi chuyển dịch mạnh cơ cấu của nền kinh tế, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm, cần nhận thức đúng vai trò quan trọng và lợi thế lớn của nền nông nghiệp nước ta trong việc bảo đảm an ninh, ổn định xã hội, tăng kim ngạch xuất khẩu”.
Từ đó, báo cáo của Chính phủ chỉ đạo: “Tạo bước chuyển biến mới trong việc phát triển nông lâm ngư nghiệp, bền vững cả về sức sản xuất, chất lượng, hiệu quả và thị trường tiêu thụ, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nông dân. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực này, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn... Đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản, gắn với phát triển các mô hình tổ chức sản xuất mới trong nông nghiệp, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung và chương trình đào tạo nghề cho nông dân. Ưu tiên ứng dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất chất lượng và giá trị cao, nhất là giống lúa, ngô, cây ăn quả, thủy sản. Tăng đầu tư cho bảo quản, chế biến các loại nông lâm thủy sản, giảm tổn thất, tăng giá trị xuất khẩu”. Như vậy, tuy là giải pháp lớn, nhưng quá cụ thể để thực thi.
2.2. Tái cấu trúc doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, động lực phát triển là các doanh nghiệp, doanh nhân. Nói một cách hình ảnh, việc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam giống như “đại dương sóng gió của những cuộc cạnh tranh kinh tế khốc liệt đang chờ đoàn thuyền Việt Nam”. Trước các thử thách ấy, Báo cáo của Chính phủ nêu vấn đề “thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp, xây dựng lực lượng doanh nghiệp dân tộc” có thể nói là giải pháp của các giải pháp. Liên quan đến vấn đề này phải kể đến Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2006 - 2010, theo đó cả nước sẽ có khoảng 500.000 doanh nghiệp vào năm 2010 (lúc ấy cả nước mới có khoảng 200.000 doanh nghiệp, nghĩa là phải phấn đấu tăng gấp 2,5 lần trong vòng 5 năm). Trên thực tế, sau sự bùng nổ về số lượng doanh nghiệp vừa qua, các doanh nghiệp đã thấy phải tự cấu trúc và củng cố lại hệ thống quản trị của mình.
“Thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp, xây dựng lực lượng doanh nghiệp dân tộc. Coi việc tăng giá trị nội địa và xây dựng lực lượng doanh nghiệp dân tộc là phương hướng chủ yếu để nâng cao tiềm lực và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển mạnh doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là các công ty cổ phần để loại hình doanh nghiệp này ngày càng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Đẩy mạnh cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thành việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; đề cao vai trò và trách nhiệm của sở hữu nhà nước trong việc định hướng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp nhà nước - trước hết là các Tập đoàn và Tổng công ty - phải đi đầu trong việc đổi mới công nghệ và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực phát triển. Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, từng bước hình thành những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ, có thương hiệu mạnh, có khả năng cạnh tranh quốc tế và tham gia vào mạng sản xuất chuỗi giá trị toàn cầu”. Riêng với sở hữu nhà nước, việc thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, gần đây Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản về nâng cao vai trò của Hội đồng quản trị, nâng cao trách nhiệm của Giám đốc, Tổng giám đốc đối với kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quốc hội đã dành một ngày (9/11/2009) làm việc tại hội trường về chuyên đề này.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước trong dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 có bố trí ngân sách cho các dự án trọng điểm một số đơn vị để hoàn thành những nhiệm vụ của Nhà nước giao trong những năm trước đây (không phải là các khoản chi hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị). Đó là các tập đoàn Dầu khí, Đường sắt, Hàng hải, Bưu chính viễn thông, Điện lực. Không bố trí ngân sách cho các Tập đoàn Dệt may, Than - Khoáng sản Việt Nam là những đơn vị phải sử dụng từ nguồn lợi nhuận sau thuế để đầu tư.
2.3. Các khía cạnh khác nhau của cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến lên hiện đại
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII và Văn kiện Đại hội X khi đề cập đến cơ cấu kinh tế, ngoài cơ cấu ngành còn xét đến cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu lao động và đặc biệt là cơ cấu thành phần kinh tế[1]. Trong trình bày của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu có nói: “Văn kiện Đại hội Đảng chỉ nên khẳng định những vấn đề nào đã rõ, đã chín muồi; Còn vấn đề nào chưa rõ thì cho tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn rồi bổ sung dần[2]”.
Với tinh thần đó, xin được nhắc lại rằng, khi bàn về vấn đề đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chúng tôi có ý kiến là tiêu chí về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước chủ yếu là ở mặt định tính[3]. Ý kiến đó được đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.01.04 thuộc chương trình KX.01 “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” tán thành và làm rõ thêm cụ thể hóa ở ba nội dung: định tính là tính chất lượng, tính định hướng, tính chi phối[4].
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực (Văn kiện Đại hội X, tr. 145):  
Bảng 2 (cơ cấu lao động)
 
Năm 2000
Năm  2005
Năm 2010
Nông lâm thủy sản
68,2
56,8
50
Công nghiệp và xây dựng
12,1
17,9
23-24 ( IX – 175 )
Dịch vụ
19,7
25,3
26-27
 
Theo văn kiện Đại hội IX, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm xuống còn khoảng 50% năm 2010, sử dụng 23 – 24% lao động công nghiệp và xây dựng, và như vậy dịch vụ khoảng 26 -27% lao động. Những con số về cơ cấu lao động năm 2010 còn phải chờ thực tế nhưng theo chúng tôi, là khó đạt.
Về các thành phần kinh tế, Đại hội X đã có bổ sung phát triển thêm một số điểm cho phù hợp với tình hình mới:
- Để chung kinh tế cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân vào thành phần kinh tế tư nhân;
- Khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế;
- Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu;
-Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp vào GDP cao hay thấp, mà ở chỗ đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển[5].
 ... “Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỷ trọng đóng góp vào GDP cao hay thấp, mà ở chỗ đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”...
Về cơ cấu thành phần kinh tế được đề cập từ Đại hội IX - 15 năm sau đổi mới - “Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh”[6]  
Tiếp đến văn kiện Đại hội X: “Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới...”.
Kết quả của chính sách phát triển các thành phần kinh tế và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước cho trong bảng 3.
Bảng 3- Cơ cấu thành phần kinh tế (% GDP). Sắp xếp lại đổi mới khu vực
kinh tế Nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
 
 
2000
2005
Nhà nước
39
38,4
Tập thể
Tư nhân
Cá thể
    8,5
    3,3
32
{ 45,7
 
Vốn ĐT nước ngoài
 13,3
15,9
 
Từ thực tế kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước, chương trình đối thoại chính sách đã gọi đây là những khuyết tật có tính chất cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam và kiến nghị phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện cam kết WTO để tạo áp lực khuyến khích doanh nghiệp nhà nước trở nên có tính cạnh tranh hơn[7].
2.4. Phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm năm (2006 – 2010)
Nghị quyết Quốc hội đặt chỉ tiêu GDP năm 2010 tăng 6,5%. Việt Nam đã vượt ngưỡng nước có thu nhập thấp với mức thu nhập bình quân đầu người 1024 USD/người. Năm 2010, GDP tăng 2,1 lần so với 2000, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 6% so với năm 2009, tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng 41% GDP, chỉ số giá tiêu dùng không quá 7%, tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động, trong đó đưa 8,5 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%, giảm tỷ lệ sinh 0,2%, cả nước đạt chuẩn phổ cập trung học phổ thông cơ sở... Tại Nghị quyết này, Quốc hội cũng đưa ra mục tiêu sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước để hình thành quỹ kích thích kinh tế phục vụ mục tiêu phát triển trung hạn và dài hạn, lưu ý Chính phủ cần có biện pháp điều hòa thận trọng, linh hoạt chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ để góp phần phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm giá trị đồng tiền. Thực hiện nhiều cơ chế kết hợp nguồn vốn đầu tư từ Nhà nước và thu hút các nguồn vốn khác để tăng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Tăng đầu tư Nhà nước cho các tỉnh nghèo, miền núi, những địa phương khó có điều kiện thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng bằng các nguồn vốn khác. Thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo. Chú trọng đầu tư cho dân sinh và kinh tế biển đảo; tập trung đầu tư, xử lý có hiệu quả các điểm ùn tắc giao thông trọng điểm, tuyến đê kè xung yếu có nguy cơ sạt lở cao, vùng úng ngập nặng nề thường xuyên. Tăng cường công tác quản lý thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khắc phục tình trạng cục bộ, địa phương, có chính sách khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực sản xuất tạo ra giá trị gia tăng cao và có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế với thời gian và mức độ hỗ trợ thích hợp.
2.5. Lời kết
Năm 2010, kết thúc kế hoạch 5 năm 2006 – 2010, kết thúc thập niên đầu của thế kỷ XXI, là năm kết thúc chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo 2 chiến lược. Trong chiến lược đầu tiên – chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 - Đảng ta đã chỉ rõ “Phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng CNXH ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội đưa con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc...”. Từ đó, rút ra nhận xét:
Thứ nhất, quan niệm về phát triển: Trước đây coi phát triển hạn hẹp chỉ là tăng trưởng kinh tế. Ngày nay coi việc phát triển là chú trọng đến cá nhân con người, đến hiệu quả kinh tế - xã hội và chính trị ổn định, với nền hòa bình vững chắc. Trước đây phát triển tập trung vào tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến bất bình đẳng xã hội. Ngày nay phát triển còn phải tập trung vào các vấn đề công ăn việc làm, thu nhập của người lao động, công bằng, vấn đề bình đẳng giới... nên đã đạt được những thành tựu đáng kể[8].
... “Trước đây coi phát triển hạn hẹp chỉ là tăng trưởng kinh tế. Ngày nay coi việc phát triển là chú trọng đến cá nhân con người, đến hiệu quả kinh tế - xã hội và chính trị ổn định, với nền hòa bình vững chắc”...
Thứ hai, về chiến phát triển: sau Hội nghị lần thứ 11 Ban CHTƯ Đảng khóa 10, chúng ta đang bắt đầu hoàn thiện thêm một bước chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011 – 2020). Quán triệt các quan điểm:
- Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt, là cơ sở vững chắc để phát triển nhanh trong quá trình thực hiện chiến lược;
- Đổi mới đồng bộ các lĩnh vực vì mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh;
- Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển;
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đồng thời với việc hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN;
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Kế thừa những thành quả đã đạt được tương tự, các giải pháp chiến lược sau đây cần tiếp tục:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Giải pháp trung tâm để đạt mục đích đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần: giải pháp nhất quán để giải phóng, phát huy mọi lực lượng sản xuất;
- Tiếp tục xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế nhà nước, hình thành đầy đủ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xác lập chế độ kinh tế “CNXH thị trường” trên đất nước ta;
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Thứ ba, trước thềm Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, nhìn lại chặng đường gần 1/4 thế kỷ thực hiện đường lối đổi mới, thực hiện trọn vẹn 2 chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với các kế hoạch 5 năm ở những thời điểm khá quyết định của cách mạng Việt Nam, với tinh thần tiếp tục đổi mới xây dựng đất nước, quá độ lên CNXH, qua nghiên cứu quán triệt Thông báo Hội nghị lần thứ 11 BCHTƯ Đảng, mỗi người chúng ta cần bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại, kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị của cương lĩnh năm 1991, bổ sung những vấn đề đã được các Đại hội BCHTƯ, Bộ Chính trị từ khóa VI đã kết luận. Những nội dung đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, bổ sung hoặc viết lại những điểm không còn phù hợp về quan điểm, giải pháp, chỉ tiêu con số ghi trong chiến lược.
----------


[1]Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia. H. 2006, tr. 145 – 146.
[2] Như trên.
[3] Thông báo khoa học XXI, Trường Đại học kinh tế quốc dân. Hà nội, Tạp chí kinh tế và phát triển 6/1999.
[4] Những đóng góp mới của đề tài KX. 01 – 04. Tạp chí phát triển kinh tế Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, 5/2005.
[5] Xem Chú thích 1.
[6]Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị Quốc gia. H. 2006, tr. 229
[7] Bài thảo luận chính sách số 2, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
[8] Tháng 9/2000, cùng với 189 vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các quốc gia thành viên LHQ, Việt nam cam kết thực hiện Tuyên bố thiên niên kỷ (MDG ) và tháng 9/2005 đã thành lập Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3+4(164+165), tháng 2/2010)