Xóa bỏ hay duy trì hình phạt tử hình đối với một số tội phạm cụ thể?

01/10/2015

TS. PHẠM VĂN BEO

Trưởng Bộ môn Luật Tư pháp, Khoa Luật, Đại học Cần Thơ

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Nhà nước, tước đi quyền quan trọng và thiêng liêng nhất của con người, đó là quyền sống. Đây là loại hình phạt đặc biệt, bởi lẽ bên cạnh tính chất nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, nó còn là một loại hình phạt có mục đích phòng ngừa tái phạm tội mới một cách triệt để từ phía người bị kết án (phòng ngừa riêng). Mặt khác, hình phạt này không có mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án, như vậy nó tước bỏ cơ hội tái hòa nhập và phục thiện của họ. Cuối cùng, hình phạt tử hình có tính chất không thay đổi, nó tước đi khả năng khắc phục sai lầm trong hoạt động tư pháp.
Tồn tại trong luật hình sự, hình phạt tử hình như là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan vì nó là phương tiện để bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Tội phạm đe dọa sự tồn tại của xã hội nên xã hội phải phản ứng một cách tự nhiên là trừng trị người phạm tội. Tuy nhiên, trong lịch sử loài người, không phải lúc nào người ta cũng có cùng suy nghĩ về loại hình phạt đặc biệt này. Xuất phát từ quan điểm cho rằng, hình phạt tử hình là một hình phạt dã man, phi luân lý, vô ích, không có tác dụng răn đe người phạm tội và việc duy trì hình phạt này không có tác dụng làm giảm tội phạm, kể cả các tội đặc biệt nghiêm trọng (bởi vì, tình trạng phạm tội đã không tăng lên ở các nước sau khi đã bị xóa bỏ loại hình phạt này), không sửa chữa được trong trường hợp có sai lầm về tư pháp, nên nhiều quốc gia đã và đang nghiên cứu loại bỏ hình phạt này và thay thế bằng các hình phạt khác. Số liệu thống kê mới nhất (tháng 6/2015) trên 195 quốc gia cho thấy, có 102 quốc gia bãi bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình; 7 quốc gia chỉ áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ hoặc đặc biệt; 50 quốc gia có quy định về hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế trong vòng 10 năm trở lại đây. Mặc dù vậy, loại hình phạt này vẫn còn được duy trì trong pháp luật hình sự ở nhiều nước với không ít người ủng hộ nó, 36 quốc gia vẫn còn duy trì hình phạt tử hình trong luật và thường xuyên áp dụng trên thực tế[1].
Việc duy trì hay bãi bỏ hình phạt này trong luật hình sự cần phải căn cứ vào đặc điểm và điều kiện cụ thể cũng như yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, tử hình vẫn được coi là hình phạt cần thiết và cần phải có nhằm trừng trị những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để giữ nghiêm kỷ cương phép nước, bảo đảm cho an ninh và trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường an toàn cho người dân, tức là loại hình phạt này vẫn có tác dụng tốt trong việc phòng ngừa tội phạm. Thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình trong nhiều thập kỷ qua ở nước ta cho thấy, hình phạt này đã đem lại những tác dụng nhất định trong việc trừng trị những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật. Việc áp dụng đúng đắn hình phạt tử hình được dư luận quần chúng đồng tình ủng hộ.
Xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, với yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, đảm bảo quyền con người, nhân đạo hóa các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, việc nghiên cứu hoàn thiện về hình phạt tử hình trong luật hình sự ở những góc độ khác nhau là một yêu cầu cần thiết. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trung tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã quán triệt: “Các bộ, ngành có liên quan cần xem xét hai vấn đề lớn là hình thức thi hành án tử hình và hạn chế số lượng hình phạt tử hình trong cơ cấu hình phạt của Bộ luật Hình sự”. Tiếp theo đó, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm trên về hình phạt tử hình: “Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.Chủ trương này của Đảng phù hợp với tinh thần Công ước về quyền chính trị và dân sự mà nước ta là thành viên, đồng thời phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Vì thế, Nhà nước ta đã có những động thái hết sức rõ rệt thông qua những lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự (BLHS). Trong BLHS năm 1985 (với bốn lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) có 44 điều luật quy định hình phạt tử hình đối với các tội phạm cụ thể (chiếm 20,37%), đến BLHS năm 1999 giảm xuống còn 29 điều (chiếm 11%) và sau lần sửa đổi, bổ sung BLHS vào năm 2009 giảm xuống còn 22 điều (chỉ chiếm trên 8%). Điều đó cho thấy, phạm vi áp dụng hình phạt tử hình trong các lần sửa đổi, bổ sung BLHS đều có xu hướng giảm dần theo thời gian.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn khách quan và trên cơ sở quán triệt đường lối chính sách hình sự của Đảng, Chính phủ đã trình Quốc hội khóa XIII Dự thảo BLHS (sửa đổi)[2]. Dự thảo này đã đề nghị bỏ hình phạt tử hình đối với 7 tội danh, bao gồm: Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231), Tội chống mệnh lệnh (Điều 316); Tội đầu hàng địch (Điều 322); Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341); Tội chống loài người (Điều 342); Tội phạm chiến tranh (Điều 343).
Việc sửa đổi BLHS theo hướng tiếp tục hạn chế hình phạt tử hình là rất cần thiết, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và xu hướng chung của các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, đây là công việc quan trọng, phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng, thận trọng, dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn cũng như những tiêu chí nhằm hạn chế hình phạt tử hình. Bởi vậy, khi muốn bỏ hình phạt tử hình đối với một loại tội phạm nào, chúng ta không nên nóng vội, mà cần thiết phải có sự xem xét một cách nghiêm túc, cẩn trọng dựa trên các tiêu chí mang tính khoa học, có căn cứ và khả thi. Theo chúng tôi, để xóa bỏ hình phạt tử hình đối với một tội phạm, chúng ta cần xem xét dựa trên nhiều tiêu chí, nhưng một trong những tiêu chí có tính tiên quyết là tính chất và mức độ nguy hiểm (tính nguy hiểm) cho xã hội của hành vi phạm tội đó trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính thuộc về nội dung của tội phạm, nó là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được quyết định bởi các yếu tố, như: Tính chất và tầm quan trọng của khách thể (quan hệ xã hội) bị xâm hại; Tính chất của hành vi khách quan; Tính chất và mức độ thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội; Tính chất và mức độ lỗi; Động cơ, mục đích phạm tội; Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm,...Bởi vậy, để đảm bảo việc quy định một hình phạt cho một tội phạm mang tính khoa học đòi hỏi hình phạt phải tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Có như thế, hình phạt mới phát huy hết tác dụng phòng, chống tội phạm cũng như giáo dục mọi công dân tự giác tuân theo pháp luật. Dựa trên tiêu chí này, theo chúng tôi, những tội phạm mà Dự thảo BLHS kỳ này đưa ra để bỏ hình phạt tử hình cần phải được xem xét lại. Có những tội phạm cần thiết phải giữ lại hình phạt tử hình, cũng có những tội phạm đến lúc nên bỏ hình phạt tử hình.
Untitled_185.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Những tội phạm sau đây nên loại bỏ hình phạt tử hình: Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231), Tội chống mệnh lệnh (Điều 316); Tội đầu hàng địch (Điều 322).
Thứ nhất, đối với tội cướp tài sản (khoản 4 Điều 133)
Cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có bất kỳ hành vi nào khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Tội phạm cướp tài sản xâm phạm cả quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân của người quản lý tài sản (tự do, sức khoẻ, tính mạng). Trong đó, quan hệ nhân thân là quan trọng hơn và bị xâm hại trước. Chỉ có thông qua việc xâm hại quan hệ nhân thân, người phạm tội mới có thể xâm hại được đến quan hệ sở hữu. Dù vậy, khách thể xâm hại chính của tội phạm này được xác định là quyền sở hữu tài sản của người khác, cho nên nhà làm luật mới xếp tội này trong Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu. Tội cướp tài sản tỏ ra đặc biệt nguy hiểm nếu rơi vào trường hợp phạm tội được quy định tại khoản 4 Điều 133 BLHS - “làm chết người”. Tuy nhiên, nếu sử dụng hình phạt tử hình đối với những trường hợp phạm tội xâm phạm đến quyền tự do, sức khoẻ hoặc tính mạng một cách vô ý và quyền sở hữu thì e rằng chưa thuyết phục, không tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện.
Việc lấy đi mạng sống của người phạm tội trong khi hành vi phạm tội của họ chỉ nhằm vào tài sản và có thể bất chấp để lấy đi tài sản đó bằng việc gây ra thương tích cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản hoặc vô tình làm cho những người đó chết xem ra quá nghiêm khắc đối với người phạm tội. Đối với hành vi phạm tội này, suy cho cùng cái đích của người phạm tội là tài sản mà phải trả giá bằng mạng sống dường như chưa thể hiện được tính nhân đạo trong luật hình sự. Hình phạt tù chung thân xét thấy đã thỏa đáng đối với những người phạm tội trong những trường hợp này. Một khi cướp tài sản hoặc sau khi phạm tội mà họ cố ý gây ra cái chết đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản thì cũng sẽ bị áp dụng khoản 1 Điều 93 về tội giết người và có thể bị mất mạng là điều không oan ức. Vì vậy, Dự thảo sửa đổi, bổ sung BLHS bỏ quy định hình phạt tử hình đối với tội danh này là hợp lý.
Thứ hai, đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231)
Theo BLHS năm 1985 thì đây là một trong các tội khác xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Mục B Chương I Phần các tội phạm. Đến BLHS năm 1999 thì tội này được chuyển về Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Như vậy, xét về tầm quan trọng của khách thể xâm hại của tội phạm này cũng như yêu cầu bảo vệ đã có sự thay đổi. Hơn nữa, về bản chất, tội phạm này xâm hại trực tiếp đến một loại tài sản của Nhà nước - đó là các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia và gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức gây ảnh hưởng lớn đến cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước. Mặt khác, cấu thành tội phạm của tội này về mặt chủ quan, người phạm tội không có mục đích chống chính quyền nhân dân. Thực tiễn xét xử cho thấy, họ gây thiệt hại cho các công trình, phương tiện công cộng do thiếu hiểu biết, không nghĩ hoặc nhận thức được đó là các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Do đó, những người này đã vô tình xâm hại đến các đối tượng được Nhà nước bảo vệ. Cho nên, việc quy định hình phạt tử hình đối với tội này là không cần thiết và không tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Vì thế, theo chúng tôi, mức phạt tù chung thân đối với tội phạm này là tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này, đảm bảo đủ sức răn đe, phòng ngừa tội phạm. Còn trường hợp phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia mà thuộc Điều 85 của BLHS - có mục đích chống chính quyền nhân dân - thì sẽ xử lý về tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và trong trường hợp này có thể áp dụng hình phạt tử hình.  
Thứ ba, đối với tội chống mệnh lệnh (Điều 316 BLHS) và tội đầu hàng địch (Điều 322 BLHS)
Đây cũng là các hành vi đặc biệt nguy hiểm, nhưng hậu quả mà hành vi phạm tội của họ gây ra sau đó có thể không nằm trong ý muốn chủ quan của người phạm tội, thậm chí có trường hợp khi thực hiện các hành vi này, bản thân người phạm tội chưa hình dung được hết những hậu quả mà hành vi phạm tội của mình có thể gây ra. Trong trường hợp chứng minh được rằng các hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đó nằm trong ý muốn chủ quan của người phạm tội thì có thể hành vi phạm tội của họ đã vượt ra ngoài phạm vi tội chống mệnh lệnh hoặc đầu hàng địch, khi đó sẽ kết hợp xử lý về các tội phạm khác có liên quan (khi thỏa mãn).
Mặt khác, nếu bỏ qua dấu hiệu về chủ thể đặc biệt (quân nhân) và khách thể bị xâm hại, hai tội phạm này không khác gì mấy so với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý hành chính. Ví dụ, tội chống mệnh lệnh có thể so sánh với hành vi không chấp hành quyết định, chỉ thị cấp trên trong quản lý hành chính. Trong khi đó, hành vi không chấp hành quyết định, chỉ thị của cấp trên không bị coi là tội phạm.
Việc nhà làm luật xem các hành vi này là tội phạm chính là sự thể hiện thái độ nghiêm khắc đối với quân nhân, những người đang đảm nhận vai trò quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến nền an ninh, quốc phòng của quốc gia. Tuy nhiên, nếu vì thế mà áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội này là không tương xứng, vì đây không phải là tội phạm mang tính quốc tế, các tội phạm này chỉ có tính nguy hiểm đặc biệt cao đối với xã hội chỉ khi đất nước trong giai đoạn chiến tranh. Khi chiến tranh đã lùi xa, các tội phạm này có tính nguy hiểm giảm đi rất nhiều, không đáng phải chịu mức chế tài tử hình.
Hơn nữa, xét về khía cạnh tâm lý, trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, cận kề giữa cái sống, cái chết, con người rất có thể có những giây phút hèn nhát (ví dụ: vì sợ chết mà chống mệnh lệnh không thực hiện nhiệm vụ chiến đấu được giao hoặc vì sợ chết mà đầu hàng địch), nếu được mở thêm một con đường sống (không có nguy cơ bị xử tử hình) thì bản thân người phạm tội có cơ hội để sám hối lỗi lầm của mình, không làm liều (khi hết cơ hội ăn năn), góp phần hạn chế được hậu quả lớn hơn có thể xảy ra. Do vậy, hình phạt tù chung thân đối với các tội phạm này là đủ nghiêm khắc mà không cần thiết phải tước đi sinh mạng của người phạm tội.
2. Những tội phạm sau đây chưa nên xóa bỏ hình phạt tử hình: Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341); Tội chống loài người (Điều 342); Tội phạm chiến tranh (Điều 343).
Dự thảo đề nghị xóa bỏ hình phạt tử hình đối với những tội phạm này xuất phát từ các quan điểm cho rằng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là không gây chiến tranh xâm lược với các nước khác nên không cần thiết quy định hình phạt quá nghiêm khắc. Bỏ hình phạt tử hình ở các điều này để phù hợp với Quy chế Rome về tòa án hình sự quốc tế (mức hình phạt cao nhất đối với 4 tội ác quốc tế chỉ dừng lại ở mức là chung thân hoặc phạt tù cao nhất là 30 năm tù) mà Việt Nam đã tham gia ký kết quy chế. Về chủ thể của tội phạm chủ yếu là người đứng đầu nhà nước, nguyên thủ quốc gia, do đó khả năng xảy ra các tội phạm này ở Việt Nam là thấp. Trường hợp xảy ra thì rất khó trong hoạt động xử lý tội phạm, vì người nước ngoài phạm tội ở nước ngoài thì Việt Nam không thể xử lý được, mà người Việt Nam phạm tội ở Việt Nam là hoàn toàn khó có thể xảy ra. Thực tiễn nước ta chưa có tội phạm nào được thực hiện, nên sửa đổi để phù hợp với Quy chế Rome.
Căn cứ nêu trên cho việc xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm này không xuất phát từ việc xác định tính nguy hiểm cho xã hội của chúng, nên chưa thuyết phục. Có thể thấy, đây là những hành vi có tính nguy hiểm cực kỳ cao cho xã hội nếu xảy ra. Nó chẳng những xâm phạm đến an ninh quốc gia mà còn xâm phạm đến tính mạng của vô số người. Khi chiến tranh xảy ra, biết bao người phải nhà tan, cửa nát, gia đình ly tán… Hậu quả của nó nghiêm trọng hơn hậu quả của tất cả các hành vi phạm tội khác được quy định trong BLHS.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm chống quân xâm lược phương Bắc, hơn trăm năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ước mơ của nhân dân Việt Nam là được sống trong cảnh độc lập, thanh bình. Chúng ta đã phải trả giá cho lý tưởng đó bằng xương máu của biết bao thế hệ anh hùng, những người đã hy sinh đời mình để mang lại hòa bình cho dân tộc. Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam rất căm ghét chiến tranh và tích cực hưởng ứng phong trào chống chiến tranh của nhân dân trên toàn thế giới, bảo vệ nền hòa bình và an ninh toàn cầu. Việc BLHS hiện hành duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phạm này là sự biểu hiện rõ nét quan điểm của Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định con đường hòa bình và độc lập dân tộc, chống chiến tranh.
Quy chế Rome đề cập về hình phạt đối với 4 tội ác quốc tế chỉ dừng lại ở mức là chung thân hoặc phạt tù cao nhất là 30 năm tù là sự khuyến nghị các quốc gia nếu thấy phù hợp với điều kiện của mình thì áp dụng. Đối với những quốc gia chưa đạt điều kiện chín muồi để xóa bỏ hình phạt tử hình, Quy chế cũng không phải mang tính bắt buộc tuyệt đối. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, chưa nên xóa bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm tội phạm này.
Thay vào đó, Dự thảo nên bổ sung những tội phạm sau đây vào danh mục các tội phạm không cần duy trì hình phạt tử hình
Một là, đối với tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 194 BLHS). Hiện nay, tội “tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý” được ghép cùng với tội “mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” tại Điều 194 của BLHS. Khoản 4 Điều 194 quy định khung hình phạt cao nhất là tử hình đối với một số trường hợp phạm tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, trong những năm gần đây, số án tử hình được áp dụng theo khoản 4 Điều 194 BLHS chiếm tỷ trọng cao trong số các án tử hình mà Tòa án đã tuyên, trong đó án tử hình chủ yếu được áp dụng đối với trường hợp phạm tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, các hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy nghiêm trọng diễn ra trong thời gian qua chủ yếu là để phục vụ hoặc có liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy. Trên thực tế, những đối tượng tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy chủ yếu là người nghèo, người làm thuê, có nhận thức pháp luật hạn chế, nhưng khi bị bắt giữ đều phải chịu trách nhiệm tại những khung hình phạt cao, kể cả tử hình. Hơn nữa, tội phạm được quy định tại Điều 194 BLHS là một tội phạm gồm nhiều hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm rất khác nhau nhưng lại cùng chung một chính sách xử lý. Đây là điều bất hợp lý. Khi quy định cấu thành tội phạm của các tội phạm này, Bộ luật đã không nêu rõ hành vi tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy phải đạt mức tối thiểu bao nhiêu, nhưng Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn mức định lượng tối thiểu, nếu dưới mức tối thiểu đó thì hành vi tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy chỉ bị xử phạt hành chính. Trong khi đó, hành vi mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy thì bất kỳ định lượng là bao nhiêu cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì thế, theo chúng tôi, việc quy định nhiều hành vi khách quan có tính chất, mức độ khác nhau trong cùng một khung hình phạt (đặc biệt là tử hình) là chưa đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hành vi và cá thể hóa trách nhiệm hình sự. 
Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội liên quan đến ma tuý thì chỉ nên giữ lại hình phạt tử hình đối với một số trường hợp phạm tội sản xuất, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý đặc biệt nghiêm trọng, còn đối với các hành vi tàng trữ, vận chuyển chất ma tuý thì mức phạt tù chung thân là đủ nghiêm khắc. Vì vậy, nên tách riêng hành vi mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý và ghép vào Điều 193 về tội sản xuất trái phép chất ma tuý để có cùng chính sách xử lý phù hợp, đồng thời, bỏ hình phạt tử hình tại Điều 194 BLHS đối với tội tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý.
Hai là, đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157 BLHS). Xét về tính nguy hiểm cho xã hội, hành vi này chưa nguy hiểm bằng các hành vi như giết người hay các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia. Mục đích phạm tội là vì tư lợi và gây thiệt hại cho trật tự quản lý kinh tế. Nếu hình phạt tử hình được tuyên và áp dụng đối với người phạm tội này thì mục đích khắc phục hậu quả do tội phạm kinh tế gây ra là rất khó, mục tiêu thu hồi tài sản sẽ không đạt được. Để các hành vi phạm tội này hạn chế tính nguy hiểm và không còn cơ hội phát triển, nền sản xuất trong nước phải đủ mạnh, với chi phí sản xuất thấp, tạo ra nhiều sản phẩm là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh để hạ giá thành các sản phẩm này. Bên cạnh đó, chúng ta phải có một hành lang pháp lý vững chắc, việc thực thi pháp luật về bảo hộ sở hữu công nghiệp phải tốt và các cơ quan nhà nước có chức năng chống hàng giả như Công an, Quản lý thị trường, Hội bảo vệ người tiêu dùng, Hiệp hội các doanh nghiệp và các nhà sản xuất phải hoạt động tích cực, thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, phải có cơ chế sao cho mọi người dân có thể nhận biết được đâu là hàng giả, đâu là hàng thật khi giao dịch và sử dụng nhằm bảo vệ tính mạng và sức khoẻ cho chính mình. Tất cả các đảm bảo trên đều có thể thực hiện được với sự nỗ lực của Nhà nước, các doanh nghiệp và mọi người dân. Khi đó, chỉ cần một mức phạt tiền thật cao cùng với chế tài tù chung thân hoặc thậm chí là tù có thời hạn cũng đủ răn đe và phòng ngừa các hành vi phạm tội thuộc loại này.
Ba là, đối với tội hiếp dâm trẻ em (khoản 3, 4 Điều 112 BLHS). Theo quy định tại khoản 3 Điều 112 BLHS, tội hiếp dâm trẻ em xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em. Ngoài ra, tội phạm này còn gây khủng hoảng tinh thần của nạn nhân và trong một số trường hợp, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nạn nhân vì tội phạm này dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng bất kỳ thủ đoạn nào để giao cấu với trẻ em trái ý muốn của họ. Đối với trường hợp nạn nhân là các trẻ em chưa đủ 13 tuổi, khoản 4 Điều 112 quy định: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em”.Tức là, bất kể hành vi giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi nào, dù có sự thoả thuận với nạn nhân hay không, đều bị xem là hiếp dâm trẻ em. Cả hai trường hợp phạm tội này theo quy định của BLHS hiện hành đều có thể bị tử hình.
Công bằng mà nói, các hành vi phạm tội này đặc biệt nguy hiểm khi xâm phạm đồng thời hai khách thể là quyền bất khả xâm phạm về tình dục và sức khoẻ của trẻ em, cá biệt có thể xâm phạm đến tính mạng của nạn nhân. Tuy nhiên, không phải vì thế mà sử dụng hình phạt tử hình đối với người thực hiện hành vi phạm tội này. Nếu so sánh, sẽ không có sự tương xứng khi đem quyền bất khả xâm phạm về tình dục và sức khoẻ để đổi lấy tính mạng. Tội phạm này đôi khi làm nạn nhân chết hoặc tự sát (điểm g khoản 3 Điều 112). Tuy nhiên, những hậu quả này không phải do sự mong muốn hoặc nằm trong dự liệu của người phạm tội. Nếu hậu quả chết người xảy ra là do sự cố ý của người phạm tội (có thể bằng mọi cách để giao cấu được với nạn nhân, kể cả cố ý gây ra cái chết hoặc giết nạn nhân để thoát tội) thì người phạm tội sẽ bị định thêm tội giết người (theo điểm c, e, hoặc g khoản 1 Điều 93 BLHS) với khung hình phạt lên đến tử hình. Trong những trường hợp đó, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tử hình là vô cùng thoả đáng. Do đó, hai chế tài tử hình tại khoản 3, 4 Điều 112 BLHS nên được bãi bỏ và chỉ nên giữ lại hình phạt tù chung thân cũng đảm bảo tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội này.
Bốn là, đối với tội nhận hối lộ (khoản 4 Điều 279 BLHS). Nhận hối lộ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Tội nhận hối lội xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức, làm cho cơ quan, tổ chức suy yếu, mất uy tín. Theo khoản 4 Điều 279 BLHS, người phạm tội có thể bị tử hình khi tài sản nhận hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Quy định hành vi nhận hối lộ với giá trị tài sản từ ba trăm triệu đồng trở lên có thể bị áp dụng hình phạt tử hình thì không phù hợp. Hành vi này, cho dù có làm suy yếu, mất uy tín của cơ quan, tổ chức đến đâu cũng không thể chỉ vì có ba trăm triệu đồng mà phải mất mạng sống. Đây không phải là những hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia nên dù thế nào cũng chỉ nên bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn là đủ đề phòng ngừa tội phạm.
Trong trường hợp hành vi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, BLHS cũng đề xuất áp dụng hình phạt tử hình. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đề cập ở đây có thể liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc có khi là thiệt hại về tính mạng. Tuy nhiên, những hậu quả đó cũng nằm ngoài sự dự liệu hoặc mong muốn của người phạm tội. Do đó, hình phạt tử hình dành cho cả hai trường hợp phạm tội này đều chưa thoả đáng.
Đứng ở góc độ khác, hành vi nhận hối lộ có một phần trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Thật vậy, một khi thủ tục hành chính được cải cách, mọi yêu cầu của người dân được các cơ quan và cán bộ nhà nước giải quyết nhanh chóng, minh bạch, đúng thủ tục thì rất ít người nghĩ đến việc đưa hối lộ cho những yêu cầu về việc giải quyết các công việc của mình và do đó, cũng không có “cửa” cho hành vi nhận hối lộ. Sở dĩ có hành vi nhận hối lộ trước hết phải thấy sự yếu kém của Nhà nước trong công tác chống tham nhũng, công tác quản lý cán bộ. Vì vậy, một khi thực hiện tốt khâu quản lý cán bộ và chống tham nhũng thì chế tài hình sự chỉ cần là tù có thời hạn cũng đủ để răn đe người nhận hối lộ./.
 

 
[1] Use of capital punishment by country,
https://en.wikipedia.org/wiki/Use_of_capital_punishment_by_country
 
[2] Hiện nay là Dự thảo 4 lấy ý kiến góp ý nhân dân từ ngày 15/7 đến hết ngày 20/9/2015.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20(300), tháng 10/2015)