Bàn về một số vấn đề của Luật Trưng cầu ý dân

01/10/2015

TS. ĐẶNG MINH TUẤN

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Trong quá trình xây dựng Luật Trưng cầu ý dân (TCYD), Hội Luật gia Việt Nam (Ban soạn thảo), Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (Cơ quan thẩm tra), các cơ quan, đại biểu Quốc hội và các chuyên gia, nhà nghiên cứu còn có nhiều ý kiến khác nhau về một số vấn đề được quy định trong Dự thảo Luật TCYD (Dự thảo). Bài viết này phân tích, đánh giá một số vấn đề trên, từ đó đề xuất hoàn thiện Dự thảo. 
Untitled_188.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Những vấn đề trưng cầu ý dân
Mặc dù Dự thảo quy định mang tính khái quát, nhưng vẫn có quan điểm đề nghị cần phải liệt kê cụ thể các vấn đề TCYD.
Theo chúng tôi, việc liệt kê các vấn đề TCYD thường chỉ đặt trong các cuộc TCYD mang tính bắt buộc. Trong cuộc TCYD tùy nghi (theo đề xuất) thì vấn đề TCYD rất đa dạng, có thể là bất cứ vấn đề nào không thuộc các vấn đề bị hạn chế TCYD. Luật TCYD các nước cũng thường chỉ quy định khái quát, không liệt kê các vấn đề trong TCYD tùy nghi.
Theo Hiến pháp năm 2013, không có vấn đề nào bắt buộc phải đưa ra TCYD, mà việc tổ chức TCYD do Quốc hội quyết định. Việc liệt kê có thể sẽ không đầy đủ và cũng không đóng vai trò nâng cao hơn tính khả thi của TCYD, bởi vì trong mọi trường hợp, việc có tổ chức TCYD hay không vẫn thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.
Các vấn đề đưa ra TCYD là những vấn đề về Hiến pháp và những vấn đề quan trọng khác. Hiến pháp năm 2013 không có quy định giới hạn các vấn đề đưa ra TCYD. Về nguyên tắc, Quốc hội có thể quyết định đưa ra TCYD về bất kỳ vấn đề quan trọng nào (không chỉ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội).
Luật không quy định chi tiết các vấn đề TCYD, nhưng có thể quy định một số vấn đề không đưa ra TCYD[1]. Tuy nhiên, trong trường hợp luật không giới hạn các vấn đề đưa ra TCYD cũng khó có khả năng dẫn đến tình trạng lạm dụng TCYD ở nước ta, bởi vì Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định TCYD[2].
2. Phạm vi trưng cầu ý dân
Dự thảo chỉ quy định TCYD cấp quốc gia. Tuy vậy, chúng tôi ủng hộ phương án quy định TCYD cấp địa phương (cấp tỉnh). Theo ý kiến của một số chuyên gia[3], việc bổ sung TCYD cấp địa phương là rất phù hợp và cần thiết ở nước ta xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây: 
- Địa phương không tách rời với lãnh thổ cả nước, mỗi địa phương trước hết phải dân chủ thì cả nước mới dân chủ;
- Dân chủ ở địa phương mới là dân chủ trực tiếp nhất và rõ ràng nhất;
- TCYD ở địa phương bảo đảm tính hài hòa chính sách chung của trung ương và chính sách cá biệt, đặc thù ở địa phương;
- Những vấn đề chỉ phát sinh hoặc chỉ liên quan trực tiếp đến một hoặc một vài địa phương thì cần tổ chức TCYD ở địa phương; 
- Việc tổ chức TCYD ở cấp địa phương là phù hợp cho việc phát triển chính quyền địa phương nước ta theo mô hình phân quyền, tự quản.
Rõ ràng, người dân địa phương cần được hưởng quyền trực tiếp quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương thông qua các cuộc TCYD. Có những vấn đề lớn của địa phương chưa cần thiết đưa ra TCYD ở cấp quốc gia, nhưng có thể lại rất cấp thiết phải đưa ra nhân dân biểu quyết ở địa phương. Báo cáo khảo sát về TCYD của Hội Luật gia Việt Nam chỉ ra rằng, đại đa số luật gia và người dân được hỏi đều khẳng định sự cần thiết tổ chức TCYD cả ở hai cấp toàn quốc và địa phương (71,4% luật gia và 85,4% người dân được hỏi). Bên cạnh đó, Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật TCYD của Ban soạn thảo cũng chỉ ra những tác động tích cực của TCYD cấp địa phương.
Xét về hiệu quả, TCYD cấp địa phương ít tốn kém hơn TCYD cấp quốc gia. Ở quy mô nhỏ, nhân dân quan tâm và hiểu rõ các vấn đề của địa phương đưa ra TCYD, do đó trưng cầu ở địa phương có tính thực thi cao[4]. Trên thực tế, người dân địa phương cũng đã đóng vai trò tích cực trong việc thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp theo Quy chế dân chủ cơ sở, do vậy việc tổ chức TCYD ở địa phương đảm bảo tính khả thi và sát với thực tế. Việc tổ chức TCYD ở cấp địa phương cũng có thể coi là một phép thử để tổ chức TCYD cấp quốc gia.
TCYD ở địa phương chỉ nên tổ chức ở cấp tỉnh, vì đây là cấp địa phương cao nhất, gắn kết các cấp chính quyền địa phương với trung ương, có cơ cấu tổ chức và năng lực quản lý phù hợp để tổ chức TCYD ở địa phương. Được tổ chức ở cấp tỉnh, các cuộc TCYD được giám sát trực tiếp bởi các cơ quan nhà nước ở trung ương. 
Về thẩm quyền, TCYD địa phương do Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh quyết định. Việc trao quyền quyết định trưng cầu ý dân cho HĐND quyết định có đầy đủ cơ sở của Hiến pháp năm 2013[5]. Cụ thể, các vấn đề đưa ra TCYD thuộc thẩm quyền của Quốc hội cần được hiểu là các vấn đề ở tầm quốc gia. Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy định HĐND có quyền quyết định các vấn đề của địa phương; trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được trao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên. Do vậy, quyết định về trưng cầu ý dân địa phương về những vấn đề quan trọng của địa phương thuộc thẩm quyền của HĐND.
Trên thế giới, rất nhiều nước tổ chức TCYD cấp địa phương. Trong thực tiễn, các cuộc TCYD cấp địa phương được sử dụng phổ biến hơn nhiều so với các cuộc TCYD cấp quốc gia[6]. Ngoài luật TCYD cấp quốc gia, nhiều nước còn ban hành luật TCYD cấp địa phương.
3. Chủ thểcó quyền đề nghị trưng cầu ý dân
Hiện nay, đang có những ý kiến khác nhau về việc mở rộng hay giới hạn các chủ thể có quyền đề xuất TCYD. Theo chúng tôi, Luật TCYD nên mở rộng phạm vi các chủ thể có quyền đề xuất TCYD xuất phát từ những lý do cơ bản sau:
- Nâng tính khả thi của Luật TCYD.
Tất cả các cuộc TCYD chỉ được đặt ra khi có đề xuất TCYD. Càng mở rộng các chủ thể có quyền đề xuất TCYD càng tạo cơ hội cao hơn cho việc tổ chức các cuộc TCYD. Điều này càng trở nên tối cần thiết khi Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định TCYD. Ở nhiều quốc gia khác, không chỉ Quốc hội, mà các chủ thể khác (cơ quan hành pháp) cũng có quyền quyết định TCYD.
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định tổ chức TCYD.
Quốc hội là cơ quan quyết định tổ chức TCYD, do vậy mọi đề xuất đều phải trình lên Quốc hội. Quy định này có ưu điểm là đảm bảo sự kiểm soát các đề xuất TCYD, tức là đảm bảo không để tổ chức, cá nhân có thể lạm dụng các TCYD với mục đích chính trị cá nhân, thiếu dân chủ hoặc không cần thiết.
- Việc mở rộng các chủ thể có quyền đề xuất TCYD không trái với Luật Tổ chức Quốc hội, mà chỉ là sự bổ sung các quy định ở tầm luật. Điều này hoàn toàn có cơ sở pháp lý bởi Luật TCYD là luật chuyên ngành, có thể có những quy định bổ sung trong mối quan hệ với Luật Tổ chức Quốc hội.
Nhiều luật gia được hỏi đều ủng hộ sự cần thiết mở rộng chủ thể được đề xuất TCYD[7].
Xem xét cụ thể Dự thảo, ngoài các chủ thể bao gồm Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị TCYD, phương án 02 của Dự thảo đề xuất bổ sung thêm Thủ tướng Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có quyền đề xuất TCYD. Về vấn đề này, chúng tôi có ý kiến như sau: i) Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chỉ có thẩm quyền lãnh đạo, điều hành Chính phủ - cơ quan hành pháp. Với vai trò là cơ quan hoạch định chính sách, Chính phủ mới có thẩm quyền đề xuất TCYD. Hơn nữa, khi đã trao quyền cho Chính phủ thì cũng không nên trao quyền cho Thủ tướng Chính phủ, vì sẽ không hợp lý khi Chính phủ và người đứng đầu Chính phủ lại có những quyền hạn như nhau. Xét kinh nghiệm nước ngoài, các nước thường chỉ trao quyền cho Chính phủ trong việc đề xuất TCYD; Thủ tướng có thể thay mặt Chính phủ ký trình đề xuất TCYD; ii) việc trao quyền đề xuất TCYD cho Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là phù hợp với vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (khoản 1 Điều 9 Hiến pháp năm 2013). Quy định này càng trở nên cần thiết khi Dự thảo không quy định trao quyền đề xuất TCYD cho nhân dân - một phương thức được sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Báo cáo khảo sát về TCYD của Hội Luật gia Việt Nam, tỷ lệ ủng hộ trao quyền đề xuất TCYD cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của các luật gia cũng rất cao (74,6% chi hội luật gia các tỉnh, thành phố).
Bên cạnh các chủ thể được đề xuất trong Dự thảo, cần cân nhắc mở rộng trao quyền đề xuất TCYD cho một số chủ thể khác như Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các chính quyền địa phương và các công dân.
Trên thế giới, mặc dù ít phổ biên so với quy định đề xuất của công quyền, pháp luật nhiều quốc gia trao cho các công dân quyền đề xuất TCYD, được chia thành hai loại: TCYD theo đề xuất (đề xuất bãi bỏ hoặc sửa đổi một văn bản đã được thông qua bởi cơ quan nhà nước) và sáng kiến công dân (đề xuất một văn bản chưa được thông thông qua bởi bất kỳ cơ quan nào). Cả hai trường hợp trên đều dẫn đến một cuộc TCYD mà không cần phải đợi quyết định cho phép của công quyền, ngoại trừ một số trường hợp đặt ra đối với sáng kiến công dân. Để thực hiện được quyền đề xuất, công dân cần thu thập được một lượng chữ ký ủng hộ nhất định của cử tri về vấn đề đưa ra TCYD.
Quy định này thể hiện tính dân chủ rất cao (dân chủ từ dưới lên), có vai trò thúc đẩy việc tổ chức các cuộc TCYD. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, quy định chỉ trao quyền đề xuất TCYD cho các cơ quan nhà nước sẽ dẫn đến nguy cơ các cuộc TCYD rất khó diễn ra hoặc diễn ra vì những mục đích chính trị cá nhân hoặc thiếu dân chủ.
Ở nước ta, TCYD phải do Quốc hội quyết định. Do vậy, nếu được quy định, đề xuất công dân ở nước ta sẽ không đương nhiên dẫn đến một cuộc TCYD như ở các nước khác, mà vẫn phải được sự phê chuẩn của Quốc hội. Điều này cũng có ưu điểm ở khía cạnh kiểm soát các đề xuất công dân, không để tình trạng phải tổ chức quá nhiều các cuộc trưng cầu ý dân theo đề xuất công dân.
Theo Báo cáo khảo sát về TCYD của Hội Luật gia Việt Nam, đại đa số ý kiến được hỏi đều cho rằng, Luật TCYD nên quy định cho phép công dân có quyền đưa ra kiến nghị trước Quốc hội về TCYD.
4. Cơ quan, tổ chức phụ trách trưng cầu ý dân
Theo chúng tôi, tổ chức TCYD là một công việc đặc biệt hệ trọng, phức tạp và cần rất nhiều công sức, nên việc thành lập Ủy ban TCYD trung ương để giúp UBTVQH tổ chức TCYD và chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ là phương án phù hợp. Về nội dung, một cuộc TCYD là công việc phúc quyết toàn dân về một vấn đề liên quan đến Hiến pháp và các vấn đề quan trọng khác của quốc gia. Về mặt thủ tục, TCYD khá giống một bầu cử đại biểu dân cử, nên cũng cần bộ máy chuyên nghiệp đứng ra tổ chức. Do vậy, việc thành lập hoặc phân công cơ quan giúp việc trong tổ chức TCYD chưa thực sự đáp ứng được các yêu cầu trên.
Cũng chính từ sự phức tạp của các cuộc TCYD, cũng như sự tương đồng của thủ tục TCYD và bầu cử, nên nhiều nước đã trao cho các cơ quan quản lý bầu cử (ở nước ta là Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan phụ trách bầu cử) quyền tổ chức các cuộc TCYD. Tuy nhiên, Hiến pháp chỉ quy định trách nhiệm của Hội đồng bầu cử quốc gia trong việc tổ chức các cuộc bầu cử. Do đó, UBTVQH cần thành lập Ủy ban TCYD trung ương để trực tiếp giúp UBTVQH tổ chức TCYD.
5. Kết quả trưng cầu ý dân
Việc công nhận kết quả TCYD thường dựa trên 02 yếu tố: tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu và tỷ lệ cử tri tán thành với nội dung TCYD.
Về tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu, chỉ một số ít nước quy định đây là điều kiện cần để công nhận kết quả bầu cử; hầu hết các nước không đưa ra quy định về số cử tri cần thiết tham gia bỏ phiếu như là một điều kiện để công nhận kết quả TCYD và các khuyến nghị gần đây của nhiều nước cũng nêu ra rằng, không nên quy định số cử tri cần thiết trong pháp luật về TCYD. Dự thảo Luật TCYD quy định cần phải có ít nhất trên 50% tổng số cử tri tham gia bỏ phiếu (phương án 01). Tuy nhiên, rất hiếm nước quy định tỷ lệ cử tri bắt buộc tham gia bỏ phiếu quá cao, ngay cả đối với các cuộc TCYD sửa đổi Hiến pháp (phương án số 02). Mặc dù tỷ lệ đi bỏ phiếu ở nước ta thường rất cao (trên thực tế), nhưng rõ ràng tỷ lệ bắt buộc theo phương án này là không có thông lệ quốc tế.
Về tỷ lệ cử tri tán thành, chúng tôi cho rằng, phương án TCYD được quá nửa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố để thi hành đã là một tỷ lệ cao, không thể cao hơn nữa. Về lý thuyết, đây là tỷ lệ chiếm đa số tuyệt đối (trên 50% tổng số cử tri đi bỏ phiếu). Trong tương quan so sánh, tỷ lệ tán thành theo phương án này của Dự thảo ở nước ta là cao hơn so với tỷ lệ được quy định trong pháp luật các nước khác. Thực vậy, các quốc gia thường quy định phương án được lựa chọn là phương án được đa số tương đối cử tri bỏ phiếu tán thành và chiếm tỷ lệ 1/4, 1/3 hoặc 40% tổng số cử tri bỏ phiếu. Ví dụ, một phương án đưa ra được 45% tỷ lệ tán thành; 40% tỷ lệ phản đối; 15% phiếu trắng (hoặc không hợp lệ) thì theo kết quả này, phương án được 45% có giá trị thi hành bởi đây là phương án chiếm đa số tương đối, đồng thời tỷ lệ này cũng chiếm trên 40% tổng số cử tri.
Ngay cả đối với các vấn đề Hiến pháp thì theo pháp luật các nước, tỷ lệ tán thành cao cũng chỉ cần chiếm trên 50% tổng số cử tri (đa số tuyệt đối). Về nguyên tắc, nếu có quá bán cử tri bỏ phiếu ủng hộ thì phương án được lựa chọn phải được áp dụng. Trường hợp quy định tỷ lệ ủng hộ cao hơn (như 2/3 tỷ lệ ủng hộ) rất ít được áp dụng, ngay cả đối với các vấn đề Hiến pháp hoặc các vấn đề đặc biệt quan trọng của quốc gia.
Ủy ban Pháp luật cũng cho rằng[8], quy định tỷ lệ tham gia và tán thành của cử tri quá cao (quá 2/3) đối với một vấn đề đưa ra TCYD thì không khả thi; thậm chí nếu tổ chức không tốt có thể dẫn đến tình trạng thúc ép cử tri đi bỏ phiếu hoặc cử tri đi bầu hộ, bầu thay và như vậy, sẽ làm giảm sút ý nghĩa của việc TCYD với tư cách là một hình thức dân chủ trực tiếp. Mặt khác, đối với Hiến pháp thì quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp được quy định rất chặt chẽ, theo đó, phải 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành thì Hiến pháp mới được thông qua; sau khi Hiến pháp được thông qua thì Quốc hội mới tổ chức TCYD. Do đó, Ủy ban Pháp luật tán thành với việc quy định như đã thể hiện tại Phương án 01.
Tóm lại, chúng tôi ủng hộ phương án quy định tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu theo phương án 01 (trên 50%); quy định phương án TCYD được đa số phiếu hợp lệ tán thành được công bố có giá trị thi hành (đa số tương đối). Trong trường hợp các nhà lập pháp thấy rằng, cần phải nâng tỷ lệ cử tri tán thành thì có thể lựa chọn theo phương án 01. Trong khi đó, phương án 02 không có cơ sở, xét ở phương diện lý luận, thực tiễn cũng như kinh nghiệm quốc tế.
6. Giải quyết khiếu nại về kết quả trưng cầu ý dân
Theo quy định của Dự thảo, nhiều cơ quan tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo về những nội dung khác nhau trong các giai đoạn khác nhau, cụ thể như sau:
- Tòa án nhân dân giải quyết đối với khiếu nại về danh sách cử tri;
- UBTVQH giải quyết khiếu nại về kết quả TCYD. Kết quả giải quyết khiếu nại của UBTVQH là kết quả cuối cùng;
- Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải đáp các thắc mắc của cử tri và xử lý vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức TCYD;
- Tổ TCYD giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri; báo cáo UBND cấp xã hoặc UBND cấp huyện nơi trực tiếp thành lập ra mình về các khiếu nại, tố cáo của cử tri không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình.
Việc trao quyền giải quyết khiếu nại TCYD cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý TCYD (UBTVQH, UBND các cấp, Tổ TCYD) là phù hợp. Theo cơ chế này, Tổ TCYD là cấp thấp nhất giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri, trong khi giải quyết khiếu nại của UBTVQH là kết quả cuối cùng. Tuy vậy, pháp luật không quy định rõ hiệu lực kết quả giải quyết khiếu nại của UBND các cấp; cấp nào có thẩm quyền xem xét khiếu nại của UBND các cấp.
Cơ chế giải quyết khiếu nại trong hệ thống các cơ quan lãnh đạo, quản lý bầu cử đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo, quản lý thống nhất cuộc bầu cử. Tuy nhiên, nếu quy trình giải quyết khiếu nại bị giới hạn trong hệ thống các cơ quan phụ trách TCYD thì việc giải quyết chưa đảm bảo được tính minh bạch, khách quan. Bên cạnh cơ chế giải quyết khiếu nại mang tính “nội bộ” của các cơ quan phụ trách TCYD, cần phải có một thiết chế tài phán độc lập, có khả năng đảm bảo tính khách quan, minh bạch, công bằng trong việc giải quyết khiếu nại. Việc trao thẩm quyền giải quyết khiếu nại cuối cùng cho UBTVQH không đảm bảo được yêu cầu này. Hơn nữa, khoảng trống đặt ra đối với việc giải quyết các khiếu nại về UBTVQH. Ở những nước có Hội đồng bầu cử quốc gia độc lập thì cơ quan này thường đóng vai trò giải quyết khiếu nại. Tuy vậy, Hội đồng bầu cử quốc gia ở nước ta lại chỉ được Hiến pháp trao quyền tổ chức, lãnh đạo các cuộc bầu cử, nên không có thẩm quyền trong lĩnh vực TCYD, kể cả việc giải quyết khiếu nại về TCYD. 
Cơ chế phổ biến nhất trên thế giới vẫn là cơ chế giải quyết thông qua các tòa án (Tòa án hiến pháp, Tòa án hành chính). Ở nước ta, theo Luật Tố tụng hành chính, Tòa hành chính chỉ có quyền giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu của đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu HĐND, danh sách cử tri bỏ phiếu TCYD. Như vậy, theo pháp luật hiện hành, Tòa hành chính không có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện khác về TCYD (như về câu hỏi TCYD, thiết kế câu hỏi, thủ tục TCYD và kết quả TCYD). Sự trao quyền cho tòa án trong việc giải quyết khiếu kiện về TCYD (cũng như về bầu cử) là yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền và dân chủ. Về mặt pháp lý, Luật Tố tụng hành chính phải mở rộng thẩm quyền giải quyết của Tòa hành chính; Dự thảo Luật TCYD cùng Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cũng cần phải có những điều chỉnh, bổ sung cơ chế giải quyết tư pháp đối với hoạt động TCYD và bầu cử.  
Bên cạnh việc cân nhắc trao quyền giải quyết khiếu kiện cho Tòa hành chính thì cũng cần phải rà soát lại toàn bộ các quy định về giải quyết khiếu nại hiện nay theo Dự thảo. Theo chúng tôi, các quy định về thẩm quyền, quy trình, kết quả giải quyết khiếu nại trong Dự thảo còn chưa rõ ràng.
Về thẩm quyền, theo quy định của khoản 10 Điều 20 Dự thảo, UBTVQH giải quyết khiếu nại về kết quả TCYD. Tuy nhiên, Điều 49, 50 Dự thảo lại quy định một cách gián tiếp UBTVQH có quyền giải quyết khiếu nại về các vấn đề khác. Theo chúng tôi, Dự thảo cần bổ sung rõ ràng thẩm quyền giải quyết của UBTVQH: giải quyết khiếu nại về kết quả TCYD; giải quyết các khiếu nại đã được giải quyết bởi các cấp dưới (UBND các cấp, Tổ phụ trách TCYD) được chuyển lên UBTVQH. Các thẩm quyền giải quyết khiếu nại của UBND các cấp cũng cần được quy định rõ hơn nhằm mục tiêu phân định thẩm quyền giải quyết của UBND các cấp và Tổ phụ trách TCYD. 
Nội dung khiếu nại (như về kiểm phiếu, câu hỏi TCYD, thiết kế câu hỏi, thủ tục TCYD và kết quả TCYD…) cũng cần được xác định rõ hơn đối với từng loại vụ việc và từng cấp có thẩm quyền xử lý.
Quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại ở từng cấp hay trong mối quan hệ giữa các cấp cũng chưa được quy định cụ thể trong Dự thảo. Tương tự, quy trình giải quyết khiếu nại chung cần được quy định trong mối quan hệ giải quyết khiếu nại từ Tổ phụ trách TCYD, UBND các cấp cho đến UBTVQH và Tòa án.
Dự thảo cũng nên có chương riêng về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về TCYD, trong đó quy định về trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện, chủ thể, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện về TCYD. Quy định về giám sát (Điều 9 Dự thảo) cũng cần được đưa vào chương này. Tuy nhiên, việc liệt kê các chủ thể giám sát theo Điều 9 là không đầy đủ, bởi nhiều cơ quan nhà nước khác (như Chính phủ, UBND các cấp, các tổ TCYD, Tòa án) cũng thực hiện quyền giám sát[9] TCYD.
Ngoài ra, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cũng cần được sử dụng tham chiếu, bởi quy trình, thủ tục TCYD có rất nhiều điểm tương đồng với quy trình, thủ tục bầu cử[10].
7. Những trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân
Theo chúng tôi, việc quy định các trường hợp không tổ chức TCYD như trong Dự thảo là cần thiết. Trong trường hợp không tổ chức TCYD về cùng một vấn đề trong một khoảng thời gian nhất định là nhằm bảo đảm việc tổ chức thực hiện kết quả TCYD. Pháp luật một số nước cũng có quy định tương tự. Trong thời gian có chiến tranh hoặc có ban bố tình trạng khẩn cấp thì không tổ chức TCYD, bởi bối cảnh, điều kiện đó không cho phép đảm bảo các điều kiện, nguyên tắc cơ bản của một cuộc TCYD theo quy định trong Luật TCYD.
Tuy nhiên, vấn đề không tổ chức TCYD trong thời hạn 24 tháng cần được cân nhắc điều chỉnh theo hướng giảm xuống 06 hoặc 12 tháng. Quy định giảm thời hạn cho phép người dân có quyền quyết định lại về một vấn đề trong khoảng thời gian không quá lớn. Các nước cũng thường chỉ quy định thời hạn không tổ chức TCYD về cùng một vấn đề trong khoảng thời gian từ 06-12 tháng. 
8. Hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân
Theo Ban soạn thảo, Dự thảo xác định hiệu lực của kết quả TCYD có giá trị quyết định, vì trong hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam đã có các quy định về việc lấy ý kiến nhân dân để tham khảo.
Theo chúng tôi, Luật TCYD cần bổ sung quy định về giá trị tham khảo của TCYD. Mặc dù hình thức này không có giá trị mạnh mẽ như TCYD có giá trị bắt buộc, nhưng nó vẫn có nhiều giá trị, đặc biệt trong bối cảnh ở Việt Nam. TCYD có giá trị tham khảo không bắt buộc các cơ quan công quyền phải thực thi kết quả TCYD. Việc không ràng buộc trách nhiệm của chính quyền trong việc thực thi có thể khuyến khích các cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc TCYD để tham khảo người dân trước khi đưa ra quyết định chính thức. Điều này là cần thiết trong lần đầu tiên nước ta có Luật TCYD, bởi vì TCYD có giá trị tham khảo có thể là một bước thử cho việc tổ chức TCYD có giá trị bắt buộc. Nói cách khác, việc quy định thêm TCYD tham khảo có thể nâng cao khả năng thực thi của Luật TCYD sau khi Luật này có hiệu lực.
Một số nước cũng đã quy định TCYD tham khảo và cũng đem lại những kết quả nhất định. Trên thực tế, mặc dù kết quả TCYD là tham khảo, nhưng các cơ quan công quyền hầu hết đều lắng nghe theo ý chí của đa số trong kết quả TCYD. Việc các cơ quan công quyền có thể thực hiện toàn bộ hoặc một phần kết quả TCYD cũng tạo sự linh hoạt của hình thức TCYD này. TCYD tham khảo có giá trị hơn rất nhiều so với hình thức lấy ý kiến nhân dân, bởi về bản chất toàn dân có quyền tham gia bỏ phiếu về một vấn đề đưa ra TCYD. Đối với việc lấy ý kiến nhân dân, chỉ một lượng nhỏ các ý kiến được tham vấn, và do vậy kết quả không phản ánh chủ quyền nhân dân một cách trực tiếp và đầy đủ nhất./.

 


*TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[1] PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp, TCYD về cái gì và theo hình thức nào, tham luận tại Hội thảo góp ý Dự thảo Luật TCYD, do Văn phòng Chính phủ phối hợp với GIZ tổ chức ngày 23/4/2015 tại TP. Hồ Chí Minh; Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật TCYD của Hội Luật gia Việt Nam.
[2] Theo kinh nghiệm thế giới, việc trao cho Quốc hội có quyền quyết định hoặc phê chuẩn đề xuất TCYD nhằm mục tiêu bảo đảm rằng các cuộc TCYD không bị lạm dụng bởi nhà cầm quyền. Việc trao quyền quyết định TCYD cho người đứng đầu hành pháp mà không có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp có nguy cơ dẫn đến sự lạm dụng TCYD vì những mục tiêu chính trị thiểu số thay vì đa số.
[3] ThS. Nguyễn Thị Thiện Trí, Phạm vi TCYD, tham luận tại Hội thảo góp ý Dự thảo Luật TCYD, do Văn phòng Chính phủ phối hợp với GIZ tổ chức ngày 23/4/2015 tại TP. Hồ Chí Minh.
[4] LS. Nguyễn Văn Hậu, Góp ý Dự thảo Luật TCYD, tham luận tại Hội thảo góp ý Dự thảo Luật TCYD, do Văn phòng Chính phủ phối hợp với GIZ tổ chức ngày 23/4/2015 tại TP. Hồ Chí Minh.
[5] Có quan điểm cho rằng việc trao cho chính quyền địa phương quyết định tổ chức trưng cầu ý dân ở địa phương là không hợp hiến, bởi vì Hiến pháp năm 2013 chỉ quy định Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân.
[6] ThS. Nguyễn Thị Thiện Trí, Tlđd.
[7] Báo cáo khảo sát về TCYD của Hội Luật gia Việt Nam.
[8] Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Báo cáo Thẩm tra dự án Luật TCYD, số 3129/BC-UBPL13, ngày 20/5/2015.
[9] Khái niệm giám sát cần được hiểu là cơ chế kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các hoạt động TCYD.
[10] TS. Đặng Quang Phương, Một số ý kiến về Dự thảo Luật TCYD, tham luận tại Hội thảo góp ý Dự thảo Luật TCYD, do Văn phòng Chính phủ phối hợp với GIZ tổ chức ngày 23/4/2015 tại TP. Hồ Chí Minh.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20(300), tháng 10/2015)


Thống kê truy cập

33944141

Tổng truy cập