Quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam – Thực trạng và kiến nghị

28/04/2022

TS. VÕ QUỐC TUẤN

Chánh án Tòa án nhân dân TP. Nha Trang, Khánh Hòa.

Tóm tắt: Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong đó có bị cáo là một trong những quyền hiến định. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự còn có những bất cập, hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích thực trạng quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự và đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Quyền được xét xử công bằng, bị cáo, phiên tòa, vụ án hình sự.
Abstract: The right to a fair trial of the accused persons, including the defendants is one of those under the Constitution. However, the legal provisions on the right to a fair trial of the accused persons at the trial of criminal cases still appear shortcomings and inconsistency. Within the scope of this article, the author provides an analysis of the current status of the law on the right to a fair trial of the accused persons at the trial of a criminal case and also proposes a number of recommendations for further improvements.
Keywords: Right to a fair trial; defendants; trial; criminal case.
CÔNG-BẰNG.jpeg
Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Khái niệm quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự
Quyền được xét xử công bằng được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế. Điều 10 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 quy định rằng, mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng hoàn toàn trong việc xem xét công khai và công bằng bởi một Tòa án “có năng lực, độc lập và không thiên vị”[1]. Khoản 1 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự (VAHS), hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự”. Quyền xét xử công bằng trở thành nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Tuy chưa được giải thích rõ ràng nhưng xét xử công bằng được hiểu là “xét xử không thiên vị, tư thù, tư oán thì phán quyết của Tòa án mới được coi là nhân danh công lý”[2]. Đồng thời, mọi sự phân biệt đối xử, kỳ thị, thiếu khách quan, không vô tư của người tiến hành tố tụng được coi là những hành vi vi phạm pháp luật. Tại phiên tòa hình sự các thành viên của Hội đồng xét xử không được biểu hiện cảm tình hoặc có bất kỳ định kiến nào khác để làm sai lệch kết quả xét xử; không được phát biểu hay đưa ra bất cứ bình luận nào có thể làm ảnh hưởng tới vụ việc mình đang giải quyết.
Xét xử công bằng là một nguyên tắc mới trong pháp luật hình sự Việt Nam nhưng nội dung của nguyên tắc được thể hiện bởi nhiều nguyên tắc khác nhau[3]. Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định nhiều nguyên tắc trong hoạt động tố tụng đều chứa đựng tinh thần xét xử công bằng, bảo đảm quyền con người[4]. Như vậy, có thể khẳng định quyền được xét xử công bằng là một tập hợp các quyền về mặt tố tụng, bao gồm: quyền được bào chữa, được suy đoán vô tội, quyền được xét xử bởi một tòa án độc lập, công khai, quyền kháng cáo, quyền được bồi thường trong trường hợp xét xử oan sai, quyền không bị áp dụng các quy định của pháp luật có hiệu lực hồi tố, quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội phạm… Trong Nhà nước pháp quyền, việc luật hóa mối quan hệ giữa bị cáo với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác thông qua việc quy định về các quyền của bị cáo tại phiên tòa, trong đó có quyền được đối xử công bằng là yêu cầu bắt buộc. Mặt khác, bảo đảm quyền được xét xử công bằng của bị cáo được coi là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan tố tụng thì cần phải quy định nội dung quyền năng của bị cáo cũng như trách nhiệm của Nhà nước tại phiên tòa xét xử VAHS.
Từ những phân tích trên có thể đi đến kết luận rằng pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa bị cáo và các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể khác, được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm góp phần bảo đảm phiên tòa hình sự được xét xử khách quan, vô tư và không thiên vị.
Khái niệm trên cho thấy, pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHScó cấu trúc chặt chẽ về nội dung lẫn hình thức. Về nội dung, pháp luật trong lĩnh vực này điều chỉnh chủ yếu là mối quan hệ giữa bị cáo và Nhà nước tại phiên tòa xét xử VAHS(đại diện là Tòa án, Viện kiểm sát), các chủ thể khác (mối quan hệ giữa bị cáo với người bào chữa, với người tham gia tố tụng), bao gồm các nhóm chế định quy định nội dung các quyền được xét xử công bằng của bị cáo, các nguyên tắc trong xét xử VAHS, trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng… Về hình thức, quy định về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS đượcthể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau từ Hiến pháp đến các đạo luật và các văn bản dưới luật.
2. Thực trạng pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những kết quả đạt được
Trước năm 2013, quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS chưa được pháp luật trực tiếp ghi nhận. Đến Hiến pháp năm 2013 quyền này mới được quy định tại khoản 2 Điều 31: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”. Ngoài ra, các khoản khác của Điều 31 và một số điều khác của Hiến pháp như Điều 102, Điều 103 quy định một số quyền tố tụng của người bị buộc tội chứa đựng nội dung quyền được xét xử công bằng. Cụ thể hóa quy định trên đây của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án nhân dân xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng” (Điều 11). BLTTHS năm 2015 quy định: ‘‘Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng…" (Điều 25). So với Điều 50 BLTTHS năm 2003, Điều 61 BLTTHS năm 2015 quy định bị cáo có một số quyền mới như quyền được “trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Quy định này có ý nghĩa giúp bị cáo cung cấp thêm những chứng cứ gỡ tội, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có quyền được “trình bày lời khai, …, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Bị cáo có quyền “đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa”. Bị cáo có quyền được “xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa”. Pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS được thể hiện thông qua các nguyên tắc trong tố tụng hình sự, được quy định trong BLTTHS năm 2015 (từ Điều 4 đến Điều 12, Điều 18, Điều 19, Điều 29 đến Điều 31, Điều 58, Điều 74). Quy định về quyền được xét xử công bằng còn được thể hiện qua các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, về chứng cứ và quá trình đánh giá chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hình sự, về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, về các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa, về khiếu nại tố cáo trong tố tụng hình sự được ghi nhận tại BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.... Tóm lại, pháp luật hình sự “đang hướng tới những quy định bảo đảm dân chủ, minh bạch, khách quan hơn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, chống bức cung, nhục hình; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền bào chữa…”[5] qua đó góp phần bảo đảm quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS.
2.2. Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây, pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo có những bất cập, hạn chế:
Một là, một số quy định trong BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) có tính chất định tính cần phải có hướng dẫn cụ thể, chi tiết mới áp dụng thống nhất như quy định “hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “rất lớn”, “đặc biệt lớn”, “do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” thì được miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29)… Bên cạnh đó, quy định BLTTHS năm 2015 về căn cứ không khởi tố tụ án hình sự chưa đề cập các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định tại Điều 29 dẫn đến những cách hiểu khác nhau.
Hai là, địa vị pháp lý của người bào chữa cho người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng, quyền bào chữa của bị cáo chưa hoàn toàn được độc lập với các chủ thể khác thể hiện thông qua các quy định về trình tự xét hỏi và xét hỏi bị cáo (Điều 307, Điều 309 của BLTTHS năm 2015). Một số quy định về quyền của người bào chữa còn mang nặng tính hình thức (được quy định tại khoản 1 Điều 73 của BLTTHS năm 2015) hoặc khó khăn thực hiện vì quy định “những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án” (khoản 2 Điều 87 của BLTTHS năm 2015)[6]. Những bất cập trên đây làm hạn chế khả năng thụ hưởng quyền được xét xử công bằng của bị cáo trong phiên tòa hình sự.
Ba là, hiện nay, mô hình tố tụng ở nước ta là mô hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi có “cài đặt những yếu tố tranh tụng… dồn toàn bộ gánh nặng chứng minh lên cơ quan nhà nước thể hiện là các cơ quan tiến hành tố tụng”[7]. Do vậy, trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và xét xử VAHS nói riêng luôn “đề cao vai trò và nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng đã vô tình bỏ quên tính công bằng”[8]. Pháp luật vẫn chưa phân định rõ ràng thủ tục tranh tụng và xét hỏi tại phiên tòa xét xử VAHS mặc dù khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Việc phân định chức chức năng của các cơ quan tố tụng, nhiệm vụ của những người tiến hành tố tụng trong xét xử cũng chưa thật sự rõ ràng, một chủ thể có thể cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ (tại phiên tòa, Kiểm sát viên đồng thời thực hiện nhiệm vụ buộc tội và giám sát hoạt động tư pháp) trong khi vai trò của người bào chữa chưa thực sự được đề cao, ngang bằng với bên buộc tội. Điều đó làm cho hoạt động tranh luận ở nhiều phiên tòa chưa thực sự có chiều sâu.
Bốn là, so với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung nhiều quy định mới nhằm khẳng định vai trò của người bào chữa, đồng thời giúp cho người bị buộc tội có vị trí công bằng trong quá trình tranh tụng, trong quá trình chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự cho mình. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện quyền này còn có nhiều hạn chế dẫn đến việc người bị buộc tội chưa được bảo đảm quyền được xét xử công bằng[9]. Quyền được nhận các quyết định tố tụng như nhận cáo trạng, nhận quyết định đưa ra xét xử, được biết mình bị truy tố về tội gì… sẽ góp phần bảo đảm quyền được xét xử công bằng của bị cáo. Tuy nhiên, trong thực tế ở một số phiên tòa hình sự, “bị cáo không được giao cáo trạng, nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc nhận được cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng không đảm bảo thời hạn luật định và khi bị cáo yêu cầu hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền của bị cáo thì Điều 297 BLTTHS năm 2015 chưa có quy định cụ thể về nội dung này”[10]. BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về thời gian nghị án, nhưng chưa quy định và chưa có biện pháp giám sát hoạt động nghị án của Hội đồng xét xử (HĐXX). Pháp luật cũng chưa có cơ chế bảo đảm sự độc lập hoàn toàn cho HĐXX nghị án (Điều 326). Điều này đã làm hạn chế phần nào bầu không khí dân chủ cũng như sự bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình. Một khi quan hệ tố tụng thiếu bình đẳng, hay quan hệ tố tụng hình sự bị hành chính hóa[11] thì quyền được xét xử công bằng của bị cáo cũng khó được thực thi trên thực tế.
Năm là, một số quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng chưa thống nhất. Một số quy định của pháp luật về chứng cứ, các nguyên tắc đánh giá, sử dụng và loại trừ chứng cứ; chủ thể thu thập chứng cứ chưa thực sự hướng đến việc bảo vệ tối đa quyền của người bị buộc tội, quyền của người bào chữa. Nhiều quy định về thủ tục liên quan đến quyền của người bị buộc tội còn phiền hà, phức tạp. Thực tiễn cho thấy “hồ sơ VAHS còn có xu hướng nặng về buộc tội và tại phiên tòa Kiểm sát viên còn tập trung vào bảo vệ cáo trạng, dẫn tới nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong một số trường hợp khó bảo đảm, tôn trọng thực sự”[12].
Những bất cập, hạn chế trên đây có nhiều nguyên nhân. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng của bị cáo cần được đặt trong tổng thể của việc đổi mới mô hình tố tụng và phải được thực hiện đồng bộ với các quyền tố tụng khác và tiến hành đồng thời với việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các thiết thế có liên quan đến hoạt động xét xử; tuy nhiên, việc thể chế hóa những chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp bảo đảm quyền của bị cáo nói chung và quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS chưa bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống. Việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền được xét xử công bằng nói chung và quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền xét xử công bằng trong tố tụng hình sự chưa được tiến hành thường xuyên để có những kiến nghị lập pháp phù hợp.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, kịp thời thể chế hóa bằng pháp luật quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội, trong đó có quyền được xét xử công bằng bị cáo thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định phần các tội phạm của BLHS hiện hành theo hướng quy định cụ thể, rõ ràng các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt để đảm bảo các dấu hiệu đó được hiểu chính xác và được áp dụng thống nhất. Cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định mang tính định tính liên quan đến quyền được xét xử công bằng của bị cáo trong BLHS năm 2015.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật hình sự trên cơ sở cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền được xét xử công bằng nói chung và quyền được xét xử công bằng của bị cáo trong tố tụng hình sự. Tiếp tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các quy định của BLTTHS hiện hành liên quan đến quyền được xét xử công bằng của bị cáo trong phiên tòa hình sự như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Ban hành quy định hướng dẫn thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội và quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự; rà soát, cải cắt bỏ những thủ tục gây khó khăn liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận bào chữa.
Thứ ba, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện thống nhất quy định của BLTTHS năm 2015 về trình tự thực hiện hoạt động xét hỏi, hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự; phân biệt hoạt động xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự. Quy chế hóa trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, quy định rõ nhiệm vụ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên trong việc bảo đảm quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử VAHS.
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền xét xử công bằng trong tố tụng hình sự trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia có mô hình tố tụng tiến bộ để có những kiến nghị lập pháp phù hợp./.
 

 


[1] https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/242.
[2] Phạm Văn Hùng (2014), Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự, in trong sách “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – nền tảng chính trị - pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong thời kỳ mới, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội, tr.186 - 187.
[3] Xem: Nguyễn Trần Như Khuê (2017), Nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai theo Điều 25 của BLTTHS năm 2015, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2017, tr. 63 – 66.
[4] Hoàng Anh Tuyên (2019), Bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong BLTTHS năm 2015, Tạp chí khoa học kiểm sát, số 6 năm 2019, tr.3 – 12.
[5] Ban cán sự Đảng Chính Phủ: Báo cáo số: 1182 - BC/BCSĐCP ngày 13/11/2019 Tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Hà Nội. 2019, tr.16.
[6] Xem: Võ Quốc Tuấn (2021), Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 03+04 (427+428), tháng 2/2021.
[7] Đinh Thế Hưng (2020), Về tố tụng công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam, tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử, nguồn: https://lsvn.vn, ngày 28/3/2020.
[8]http://khoaluat.vinhuni.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/seo/bai-viet-dam-bao-quyen-im-lang-trong-to-tung-hinh-su-viet-nam-81006.
[9] Nguyễn Trần Như Khuê (2020), Bảo đảm xét xử công bằng cho người bị buộc tội thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội, Tạp chí khoa học kiểm sát, số chuyên đề số 3, năm 2020, tr.43-47.
[10] Lê Đình Nghĩa (2021), Một số bất cập thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS năm 2015, tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, nguồn: https://tapchitoaan.vn, ngày 20/5/2021.
[11]Trần Ngọc Đường (2014), Những điểm mới trong Hiến pháp năm 2013 về cải cách tư pháp trong sách: trong sách Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Nxb. Lao động, Hà Nội. 2014, tr.488.
[12] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, TTHS và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai trong hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật” của Quốc hội khóa XIII., tr.15.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 04 (452), tháng 02/2022.)


Ý kiến bạn đọc