Quy trình bầu Ủy viên Ủy ban nhân dân

31/05/2021

THS. HOÀNG THỊ LAN

Vụ Công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội.

Tóm tắt: Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích các quy định của pháp luật về chức danh, quy trình bầu Ủy viên Ủy ban nhân dân và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.
Từ khóa: Ủy viên Ủy ban nhân dân, người đứng đầu cơ quan chuyên môn, quy trình bầu chức danh ủy viên Ủy ban nhân dân.
Abstract: Within the scope of this article, the author provides discussions and analyses of the legal provisions on titles, the process of election of members of the People's Committee and makes recommendations for improvement.
Keywords: Members of the People's Committee; head of specialized agencies; procedures for election of the position of members of the People's Committee.
  bàn-bạc.png
1. Khái lược về chức danh Ủy viên Ủy ban nhân dân
Ngay trong văn bản pháp luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 cho đến Luật Tổ chức chính quyền địa phương (CQĐP) năm 1958, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban hành chính (UBHC) năm 1962, các Luật Tổ chức HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND) các năm 1983, 1989, 1994, 2003 đều thống nhất quy định về địa vị pháp lý và số lượng ủy viên UBND. Về địa vị pháp lý, đây là chức danh do HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo sự giới thiệu, đề nghị của Chủ tịch UBND. Đồng thời, HĐND có quyền lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với ủy viên UBND. Tùy thuộc vào cấp chính quyền, quy mô dân số, diện tích tự nhiên để quyết định khung tối thiểu, tối đa số lượng ủy viên UBND. Bắt đầu từ nhiệm kỳ hoạt động 1994 – 1999, cơ cấu thành viên UBND được quy định tại các nghị định của Chính phủ[1]. Theo đó, cơ cấu, số lượng ủy viên UBND gắn với phạm vi công việc của mỗi cấp chính quyền địa phương.
Như vậy, pháp luật chỉ quy định số lượng ủy viên UBND mà không quy định điều kiện chức vụ kèm theo. Trên thực tế, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm hiệu quả hoạt động, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thường được Chủ tịch UBND giới thiệu để HĐND bầu làm Ủy viên UBND phụ trách lĩnh vực theo quy định của pháp luật (ví dụ đối với cấp tỉnh giám đốc sở nội vụ sẽ là ủy viên phụ trách nội vụ, giám đốc sở tài chính là ủy viên phụ trách tài chính…). Sự ổn định của quy định này trong lịch sử hoạt động của chính quyền địa phương phần nào phản ánh tính hợp lý, khả thi của quy phạm về ủy viên UBND tại các văn bản trước kia.
Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đã thay đổi quy định về Ủy viên UBND[2]. Theo đó, Ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn và ủy viên phụ trách quân sự, ủy viên phụ trách công an. Quy định này hướng tới mục đích tăng cường trách nhiệm cá nhân người đừng đầu cơ quan chuyên môn đối với hoạt động chung của UBND. Hoạt động theo dõi, trao đổi của UBND được kịp thời, thường xuyên, định kỳ hơn khi tất cả người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND đều có quyền và trách nhiệm tham gia phiên họp của UBND, có quyền biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của UBND cùng cấp. Đồng thời, HĐND có cơ chế giám sát toàn diện hơn đối với hoạt động của UBND thông qua quyền lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Ủy viên UBND. Điều này tạo sự bình đẳng, công bằng trong gánh chịu trách nhiệm cá nhân và là động lực để tăng cường hiệu quả, chất lượng quản lý điều hành của tập thể UBND và của cá nhân người đứng đầu cơ quan chuyên môn.
2. Những vấn đề phát sinh
Mặc dù Luật Tổ chức CQĐP có nhiều điểm “tích cực” góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cá nhân người giữ chức danh Ủy viên UBND, người đứng đầu cơ quan chuyên môn và tập thể HĐND, UBND. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật Tổ chức CQĐP đã phát sinh một số vướng mắc. Nguyên nhân xuất phát từ việc Luật Tổ chức CQĐP gắn chức danh bầu cử (thành viên UBND do HĐND bầu) và chức danh hành chính (người đứng đầu cơ quan chuyên môn do Chủ tịch UBND bổ nhiệm) trong một chủ thể.
Nghiên cứu cách thức hình thành các chức danh trong hệ thống chính trị cho thấy, quy định “Ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn” tại Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 áp dụng theo mô hình của Chính phủ. Khoản 1 Điều 99 Hiến pháp năm 2013 quy định: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ… Đối với chính quyền trung ương, quy định trên phù hợp vì có sự đồng nhất về địa vị pháp lý, chủ thể có thẩm quyền quyết định, quy trình hình thành chức danh thành viên Chính phủ và bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, người giữ chức danh bộ trưởng là cán bộ. Nhiệm kỳ hoạt động của Chính phủ theo nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội. Tương ứng với đó, nhiệm kỳ hoạt động của các thành viên Chính phủ đồng nhất với thời gian giữ chức danh bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan ngang bộ và theo nhiệm kỳ Quốc hội. Quốc hội là chủ thể có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm một cá nhân giữ chức danh bộ trưởng, đồng thời là thành viên Chính phủ.
Tuy nhiên, khi quy định này được áp dụng ở chính quyền địa phương sẽ không hợp lý bởi các lý do sau:
Thứ nhất, về địa vị pháp lý: Theo nguyên tắc, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, nhiệm kỳ hoạt động của UBND theo nhiệm kỳ hoạt động của HĐND[3]. Do đó, nhiệm kỳ hoạt động của ủy viên UBND gắn với nhiệm kỳ của HĐND. Ủy viên UBND là chức danh kiêm nhiệm, quy định trách nhiệm tham gia của cá nhân đối với tập thể của UBND. Căn cứ Luật Cán bộ, công chức, người giữ chức danh ủy viên UBND được hiểu là cán bộ[4]. Trong khi đó, người được bổ nhiệm chức vụ đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND là công chức[5]. Điều này một lần nữa được khẳng định tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 Nghị định số 06/2010/NĐ – CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những người là công chức.
Thứ hai, về quy trình hình thành chức danh: Theo quy định hiện hành, Ủy viên UBND là chức danh do HĐND bầu thực hiện theo quy trình bầu cử trên cơ sở giới thiệu của Chủ tịch UBND[6]. Đối với chức danh người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND được thiết lập theo cơ chế bổ nhiệm. Quyết định bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND và theo trình tự thủ tục về điều kiện bổ nhiệm được pháp luật quy định[7].
Thứ ba, về thời điểm và thời gian thực hiện nhiệm vụ: Ngay sau khi được HĐND bầu, ủy viên UBND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình[8], thời gian giữ chức danh Ủy viên UBND theo nhiệm kỳ của HĐND hoặc đến khi HĐND bỏ phiếu miễn nhiệm, bãi nhiệm chức danh ủy viên UBND. Trong khi đó, quyết định bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn là văn bản hành chính, thời điểm thực hiện nhiệm vụ phụ thuộc vào hiệu lực thi hành của văn bản đó. Thời gian hoạt động của người đứng đầu cơ quan chuyên môn tính theo tuổi công tác của cá nhân người được bổ nhiệm. Hiện nay, quy trình bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn được thực hiện theo Quyết định số 27/2003/QĐ – TTg ngày 19/02/2003 của Thủ tướng Chỉnh phủ về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.
Xuất phát từ địa vị pháp lý khác nhau, có hai cơ chế riêng biệt hình thành chức danh bầu cử (ủy viên UBND) và chức danh hành chính (người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND, thể hiệnthông qua sự độc lập, riêng biệt từ chủ thể có quyền quyết định, trình tự thủ tục thực hiện, hệ thống văn bản áp dụng, thời điểm và thời gian thực hiện nhiệm vụ của ủy viên UBND và người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND. Vì vậy, khi Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 đồng nhất hai chức danh trong một chủ thể nhưng vẫn giữ nguyên các quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan về trình tự thủ tục thì tất yếu sẽ có những vướng mắc, mâu thuẫn.
Chức danh nào có trước, làm tiền đề, điều kiện để xem xét, quyết định cho việc thực hiện quy trình hoàn thiện chức danh còn lại? Trong trường hợp người được HĐND bầu làm Ủy viên UBND nhưng không đủ điều kiện bổ nhiệm làm người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND hoặc khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND nhưng không được HĐND tín nhiệm bầu làm Ủy viên UBND sẽ giải quyết thế nào?
Thời gian hoạt động chức danh của Ủy viên UBND được tính từ khi HĐND bầu đến hết nhiệm kỳ của HĐND hoặc khi HĐND miễn nhiệm, bãi nhiệm, trong khi đó thời gian thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan chuyên môn phụ thuộc vào thời điểm công tác của cá nhân. Với cơ chế hoạt động theo chế độ hội nghị, quyết định theo đa số thì việc HĐND miễn nhiệm, bãi nhiệm chức danh Ủy viên UBND hiếm khi trùng hợp với thời điểm kết thúc việc thực nhiệm vụ được quy định tại quyết định của Chủ tịch UBND bổ nhiệm người giữ chức vụ đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND. Như vậy, luôn có một khoảng thời gian Ủy viên UBND không là người đứng đầu cơ quan chuyên môn hoặc ngược lại. Điều đó cho thấy, quy định tại khoản 1 của các Điều 20, 27, 41, 48 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 không thể áp dụng trong mọi trường hợp, mọi thời điểm.
Ngoài ra, hai cơ chế chức danh khác nhau nhưng được quy định chung cho một chủ thể sẽ dẫn đến tình trạng hình thức ở ít nhất một trong hai quy trình hoàn thiện chức danh. Nếu việc bầu Ủy viên UBND có trước thì quy trình bổ nhiệm của Chủ tịch UBND sẽ hình thức; ngược lại, nếu việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn có trước thì quy trình bầu của HĐND sẽ hình thức.
Nhiệm kỳ HĐND 2016 – 2021 là nhiệm kỳ đầu tiên thực hiện Luật Tổ chức CQĐP năm 2015. Hướng dẫn số 1138/HD – UBTVHQ13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về một số nội dung tại kỳ họp thứ nhất, nhiệm kỳ HĐND 2016-2021 (Hướng dẫn số 1138) quy định quy trình bầu Ủy viên UBND[9]:
1. Chủ tịch UBND trình danh sách giới thiệu các Ủy viên UBND. Tờ trình của Chủ tịch UBND về việc giới thiệu người ứng cử vào chức vụ y viên UBND phải nêu rõ chức vụ tại cơ quan chuyên môn của UBND hoặc lĩnh vực công tác phụ trách mà người đó dự kiến sẽ đảm nhiệm sau khi được bầu làm Ủy viên UBND. Ủy viên UBND khóa mới thực hiện nhiệm vụ ngay sau khi được HĐND bầu.
2. Căn cứ vào kết quả bầu của HĐND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện ra quyết định bổ nhiệm Ủy viên UBND vào chức danh người đứng đầu cơ quan chuyên môn tương ứng thuộc UBND cùng cấp (trừ Ủy viên phụ trách công an và Ủy viên phụ trách quân sự).
Theo quy định này, quy trình HĐND bầu chức danh Ủy viên UBND được tiến hành trước, làm căn cứ để Chủ tịch UBND bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn. Cách hiểu này phù hợp với lập luận: UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, hoạt động theo nhiệm kỳ của HĐND. Do vậy, cơ quan chuyên môn của UBND cũng phải theo nhiệm kỳ của HĐND.
Về mặt pháp lý, Hướng dẫn số 1138 đã xác định mối quan hệ trong trình tự bầu Ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Tuy nhiên, trên thực tế, đa số nhân sự khi được Chủ tịch UBND giới thiệu để HĐND bầu làm Ủy viên UBND đã được Chủ tịch UBND bổ nhiệm giữ chức vụ người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND theo Quyết định số 27/2003/QĐ – TTg. Chính vì vậy, sau khi HĐND bầu Ủy viên UBND, việc UBND bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND không được thực hiện thống nhất. Theo thống kê, đối với chính quyền cấp tỉnh có 38 địa phương ban hành quyết định bổ nhiệm chức danh Ủy viên UBND giữ chức vụ người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND, 25 địa phương không ban hành quyết định bổ nhiệm Ủy viên UBND giữ chức vụ người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND; trong số 38 địa phương thực hiện theo Hướng dẫn số 1138 thì có nhiều quyết định hoặc không đúng với quy định của Luật Tổ chức CQĐP hoặc không đúng với Quyết định số 27/2003/QĐ – TTg về thời hạn bổ nhiệm, quy trình lấy ý kiến các cơ quan đoàn thể[10]. Tuy nhiên, tình trạng này vẫn chưa được cơ quan có thẩm quyền khắc phục, và cũng chưa có hướng dẫn để áp dụng cho các nhiệm kỳ tới.
Bên cạnh đó, Hướng dẫn số 1138 chỉ là văn bản thực hiện tại kỳ họp thứ nhất HĐND nhiệm kỳ 2016-2021, không là căn cứ để áp dụng thực hiện quy trình bầu Ủy viên UBND tại các kỳ họp khác của HĐND trong nhiệm kỳ 2016 – 2021 và của các nhiệm kỳ tiếp theo. Cho đến nay, việc bầu Ủy viên UBND và bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn chưa được hướng dẫn, giải thích để tạo sự thống nhất trong nhận thức và thực hiện. Trong khi đó, việc thay đổi nhân sự trong nhiệm kỳ hoạt động của HĐND, UBND luôn có khả năng xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào vì các lý do cá nhân như luân chuyển công tác, nghỉ chế độ hưu trí, sức khỏe hay do vi phạm pháp luật.
3. Đề xuất hướng giải quyết
Yêu cầu về tính thống nhất giữa các quy định của pháp luật và giảm thiểu tính hình thức trong hoạt động của HĐND, UBND đối với công tác nhân sự, không chỉ đơn thuần là việc đưa ra trình tự chức danh nào có trước, chức danh nào có sau như Hướng dẫn số 1138 mà cần phải xuất phát từ bản chất khác nhau của hai chức danh để giải quyết vấn đề. Một quy định không phản ánh đúng địa vị pháp lý của đối tượng sẽ khó thống nhất, đồng bộ, thậm chí gây mâu thuẫn, chồng chéo trong thực hiện. Điều đó trước mắt ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của đối tượng thực thi pháp luật và lâu dài sẽ tác động tiêu cực đến ý thức pháp luật của xã hội.
Từ những bất cập trên, việc sửa đổi các quy định có liên quan của Luật Tổ chức CQĐP hoặc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện là điều các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét, giải quyết. Giải pháp đặt ra là sửa đổi các quy định của các khoản 1 của các Điều 20, 27, 41, 48 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 hoặc các nội dung liên quan trong các luật khác để bảo đảm thực hiện các điều này hoặc ban hành một văn bản hướng dẫn.
Để khắc phục các bất cập nêu trên, tác giả đề xuất một số phương án sau:
Phương án thứ nhất: Sửa đổi các quy định của các khoản 1 của các Điều 20, 27, 41, 48 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015.
Từ thực tế hoạt động bầu Ủy viên UBND và bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan chuyên môn của các nhiệm kỳ trước, trên cơ sở kế thừa các quy định của các Luật Tổ chức HĐND và UBND trước kia, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 cần được sửa đổi theo hướng quy định thẩm quyền của HĐND trong việc bầu Ủy viên UBND và quy định khung số lượng tối thiểu, tối đa Ủy viên UBND để đảm bảo hiệu quả hoạt động của UBND. Trong đó, số lượng thành viên UBND được mở rộng tương ứng với số cơ quan chuyên môn của từng đơn vị hành chính nhưng không gắn kết yếu tố điều kiện “là người đứng đầu cơ quan chuyên môn” để HĐND bầu Ủy viên UBND.
Việc mở rộng thành viên UBND tương ứng với số cơ quan chuyên môn của UBND cũng đảm bảo mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương như mong muốn của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015. Ngoài ra, hướng sửa đổi này cũng là biện pháp thúc đẩy sự cố gắng, cạnh tranh giữa các cá nhân người đứng đầu cơ quan chuyên môn để nhận được sự tín nhiệm của HĐND. Khi người đứng đầu cơ quan chuyên môn không được HĐND tín nhiệm bầu làm Ủy viên UBND thì Chủ tịch UBND sẽ có căn cứ, cơ sở để xem xét lại quyết định bổ nhiệm của mình nhằm lựa chọn nhân sự phù hợp hơn (ví dụ như cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn cũng được giới thiệu làm Ủy viên UBND).
Đây là giải pháp tối ưu, vừa bảo đảm tính ổn định với các văn bản pháp luật hiện có về quy trình bổ nhiệm cán bộ, công chức và các văn bản về hoạt động giám sát của HĐND đối với UBND vừa không tác động đến các chính sách khác của hệ thống chính trị về công tác quản lý cán bộ, công chức.
Phương án thứ hai: Sửa đổi các quy định của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 về thẩm quyền của HĐND và một số quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Trong trường hợp vẫn giữ các quy định tại các khoản 1 của các Điều 20, 27, 41, 48 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 thì cần sửa đổi các quy định của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 về thẩm quyền của HĐND và một số quy định của các văn bản pháp luật khác nhằm bảo đảm sự thống nhất các yếu tố: Chủ thể quyết định, trình tự thủ tục, thời hạn thực hiện nhiệm vụ của hai chức danh này. Theo phương án này, trước hết, cần bổ sung thẩm quyền của HĐND trong việc quyết định nhân sự người đứng đầu cơ quan chuyên môn và được thực hiện trong cùng một hệ thống văn bản của HĐND với tinh thần HĐND bầu Ủy viên UBND thì đồng thời là người đứng đầu cơ quan chuyên môn. Mô hình này được áp dụng theo cách mà chính quyền trung ương đang thực hiện đối với quy trình phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Khi đó, Ủy viên UBND và người đứng đầu cơ quan chuyên môn được đồng nhất trong một quy trình thực hiện, do một chủ thể quyết định.
Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp hiệu quả và khả thi vì quy trình này sẽ tiếp tục gặp phải những trở ngại xuất phát từ sự khác biệt giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Bởi lẽ, khó bảo đảm tính độc lập trong hoạt động điều hành của UBND khi nhân sự người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của HĐND. Trong trường hợp trao quyền cho HĐND, mọi sự thay đổi nhân sự Ủy viên UBND đồng thời là người đứng đầu cơ quan chuyên môn phải được miễn nhiệm, bãi nhiễm tại kỳ họp HĐND. Điều này không phù hợp với cơ chế hoạt động của HĐND. Ngoài ra, việc xác định độ tuổi công tác của người đứng đầu cơ quan chuyên môn không thể áp dụng như đối với bộ trưởng, thành viên Chính phủ vì phải bảo đảm tính đồng bộ với các quy định của pháp luật về cán bộ công chức, thời gian công tác, những tác động tới chính sách tiền lương, bảo hiểm đối với một lượng nhân sự lớn giữ chức danh Ủy viên UBND, người đứng đầu cơ quan chuyên môn ở cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay. Do vậy, cần phải cân nhắc nhiều yếu tố từ cơ chế thực hiện đến các quy định hiện hành như Luật Bảo hiểm, Luật Cán bộ, công chức… khi lựa chọn giải pháp này.
Phương án thứ ba: Ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng cho đối tượng Ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND.
Đây là giải pháp được đưa ra bảo đảm tính ổn định của Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 và các văn bản pháp luật khác. Theo đó, Chính phủ, căn cứ vào thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015[11], khoản 1 Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015[12] để ban hành văn bản quy định về quy chế bổ nhiệm đối với đối tượng ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn.
4. Thay cho lời kết
Quy định Ủy viên UBND là người đứng đầu cơ quan chuyên môn của UBND được quy định tại Luật Tổ chức CQĐP năm 2015 có những ưu điểm và hạn chế như đã phân tích trên đây. Vì vậy, khi không giải quyết được gốc rễ của vấn đề xuất phát từ sự khác nhau giữa địa vị pháp lý của một chức danh bầu cử với chức danh hành chính thì đương nhiên sẽ có những khó khăn, vướng mắc, những mong muốn về ưu điểm quy định đó mang lại không được phát huy. Các vấn đề về xung đột pháp luật, tình trạng quy phạm không được triển khai là khó tránh khỏi. Do vậy, các giải pháp nêu trên được đưa ra có thể là gợi mở để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, lựa chọn nhằm giải quyết vấn đề, đặc biệt trong bối cảnh kỳ họp thứ nhất HĐND nhiệm kỳ 2021-2026 đang đến gần./.

 


[1] Ví dụ như Nghị định số 107/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 để thực hiện Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dânnăm 2003; Nghị định số 174-CP ngày 29/9/1997 để thực hiện Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994.
[2] Khoản 1 của các Điều 20, 27, 41, 48 Luật Tổ chức CQĐP.
[3] Điều này đã được quy định tại các luật về tổ chức HĐND và UBND (Ví dụ khoản 3 Điều 10 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003….),
[4] Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức.
[5] Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức.
[6] Khoản 4 Điều 83 Luật Tổ chức CQĐP.
[7] Quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 24/2014/NĐ – CP ngày 04/04/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuôc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; khoản 4 Điều 5 Nghị định số 37/2014/NĐ – CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh.
[8] Khoản 4, khoản 9 Điều 83 Luật Tổ chức CQĐP.
[9] Ý 7 điểm a mục 5 Hướng dẫn 1138/HD – UBTVQH14.
[10] Báo cáo số 2654/BC – BNV ngày 11/6/2018 của Bộ Nội vụ về việc bổ nhiệm Ủy viên UBND cấp tỉnh, cấp huyện giữ chức vụ người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp.
[11] Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với chính quyền địa phương: “3. Lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra hoạt động của UBND các cấp”.
[12] Chính phủ ban hành nghị định để quy định: “1. Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước”.
 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 09 (434), tháng 5/2021.)


Ý kiến bạn đọc