Uỷ ban nhân dân thành phố Thủ Đức và những yêu cầu đối với cơ quan hành chính nhà nước trong chính quyền thành phố thuộc thành phố

19/04/2021

THS. TRẦN THỊ THU HÀ

GVC. Khoa Luật Hành chính Nhà nước, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.

Tóm tắt: Uỷ ban nhân dân (UBND) thành phố Thủ Đức là thiết chế trung tâm trong bộ máy chính quyền thành phố thuộc thành phố, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một đô thị hiện đại và năng động. Tuy nhiên, trước những triển vọng và thách thức của việc thành lập chính quyền thành phố Thủ Đức trong thành phố Hồ Chí Minh, để có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ một cách tốt nhất, bản thân cơ quan hành chính nhà nước này phải được đổi mới về tổ chức và hoạt động. Do vậy, không chỉ nhận diện UBND thành phố Thủ Đức từ các văn bản pháp luật hiện hành, tác giả còn xem xét các yêu cầu đặt ra đối với nó nhằm đề xuất một số cơ chế đặc thù mà cơ quan hành chính nhà nước trong chính quyền thành phố thuộc thành phố cần phải có.
Từ khóa: UBND thành phố Thủ Đức, cơ quan hành chính nhà nước trong chính quyền thành phố thuộc thành phố.
Abstract:The People’s Committee of Thu Duc city is a central institution in the municipal government apparatus, playing a particularly important role in the socio-economic development of a modern and dynamic city. However, facing the prospects and challenges of the establishment of the government of Thu Duc city in Ho Chi Minh City, in order to be able to fulfill the functions and tasks in the best manner, this administrative agency itself must be innovated in organization and operation. Therefore, not only identifying the People’s Committee of Thu Duc city from the current legal documents, but the article also provides consideration to the requirements posed to propose some specific mechanisms that the administrative body in municipal government must be required.
Keywords: People's Committee of Thu Duc city, the state administrative entity within a municipal government of the city
 THỦ-ĐỨC.jpg
  Ảnh minh họa: Nguồn internet
1. Nhận diện vị trí pháp lý của Uỷ ban nhân dân thành phố Thủ Đức từ các văn bản pháp luật hiện hành
Hiện nay, UBND Thành phố Thủ Đức chưa hiện hữu trên thực tế nhưng những cơ sở pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của cơ quan này về cơ bản đã được xác định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2019 và Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh vừa được Quốc hội thông qua ngày 16/11/2020. Theo đó, UBND thành phố Thủ Đức là cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) trong chính quyền thành phố thuộc thành phố - một đơn vị hành chính cấp huyện, “do Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND… chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và CQHCNN cấp trên”[1]; bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên là người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND; hoạt động “theo chế độ tập thể UBND kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch UBND”[2]. Từ những phác thảo cơ bản nêu trên, có thể thấy UBND thành phố Thủ Đức chưa bộc lộ nét đặc thù và điểm nổi trội đáng kể nào về vị trí, tính chất pháp lý và chế độ hoạt động so với CQHCNN có thẩm quyền chung ở các đơn vị hành chính cấp huyện khác.
Tuy nhiên, xét một cách khách quan, pháp luật hiện hành đã có sự điều chỉnh đáng ghi nhận về thẩm quyền của UBND thành phố thuộc thành phố nói chung và UBND thành phố Thủ Đức nói riêng. Ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 56 Luật Tổ chức chính quyền địa phương[3], nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện cụ thể của “thành phố thuộc thành phố”, UBND thành phố Thủ Đức còn được tăng cường thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Một là, xây dựng, trình HĐND cùng cấp quyết định các nội dung như: dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, trong đó bao gồm dự toán ngân sách của phường trực thuộc; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách phường trực thuộc theo quy định của Luật Đầu tư công; tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công theo phân cấp quản lý; phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm của UBND phường trực thuộc và tổ chức thực hiện nghị quyết của HĐND.
Hai là,căn cứ vào nghị quyết của HĐND thành phố Thủ Đức về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hằng năm của thành phố, quyết định giao nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cho UBND phường trực thuộc.
Ba là, quyết định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác trên địa bàn các phường trực thuộc[4].
Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức cũng được trao thêm một số quyền hạn như: bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đình chỉ công tác Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND phường trực thuộc; tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức phường trực thuộc; đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND phường trực thuộc[5]
Như vậy, thẩm quyền của UBND và Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức đều được bổ sung theo xu hướng tăng cường mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới trong hệ thống hành chính nhà nước, nhằm đảm bảo sự vận hành thống nhất, thông suốt của bộ máy thực thi công vụ ở địa phương. Điều này bắt nguồn từ việc chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh tới đây sẽ không thành lập HĐND phường. Và vì không có HĐND phường, để thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương nên CQHCNN phường, thay vì “trực thuộc hai chiều” như trước đây, sẽ trực thuộc CQHCNN cấp trên, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trực tiếp của UBND và Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu so với UBND quận trong mô hình chính quyền đô thị vừa được Quốc hội phê chuẩn, “diện mạo” UBND thành phố Thủ Đức khá bình thường. Trong khi UBND quận được xác định là cơ quan đại diện của chính quyền địa phương ở quận, “làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ”[6] thì UBND thành phố Thủ Đức, cơ quan hành chính của một thành phố thuộc thành phố, được sáp nhập từ quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức, vẫn theo mô hình truyền thống cả về tổ chức và hoạt động. Đành rằng chính quyền địa phương ở thành phố Thủ Đức được xác lập trên lãnh thổ tự nhiên cần có cấp chính quyền đầy đủ, còn chính quyền địa phương ở quận dựa trên “lãnh thổ nhân tạo”, không nhất thiết phải thành lập thiết chế đại diện mà chỉ cần “mũi nhọn chủ lực” là UBND tập trung điều hành, quản lý, chủ động giải quyết vô số các vấn đề đặt ra hàng ngày, hàng giờ trong đời sống đô thị, dưới sự giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương. Song nếu chỉ tạo ra “thành phố thuộc thành phố” tương đương một đơn vị hành chính cấp huyện thì e rằng Đề án thành lập thành phố Thủ Đức đã hướng tới mục tiêu khá khiêm tốn, không tương xứng với định hướng về việc phát triển một “vùng lõi của vùng kinh tế trọng điểm”, “khu đô thị sáng tạo, tương tác cao”…
2. Những yêu cầu đặt ra đối với cơ quan hành chính nhà nước trong chính quyền thành phố Thủ Đức
Trước hết, UBND thành phố Thủ Đức cần phải được tổ chức phù hợp với điều kiện đặc thù của chính quyền thành phố thuộc thành phố.
Thành phố Thủ Đức sẽ được hình thành trên cơ sở sáp nhập ba quận ở phía Đông Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng sự ra đời của UBND thành phố Thủ Đức không nên là sản phẩm của một “phép cộng” giản đơn giữa UBND quận 2, quận 9 và quận Thủ Đức. Bởi chúng ta khó có thể mong đợi nhiều từ một công cuộc sáp nhập mang tính cơ học với hệ quả tất yếu là một bộ máy nặng nề, đồ sộ. Trong khi, quản lý nhà nước đối với đô thị đòi hỏi một thiết chế quản lý gọn nhẹ và năng động. Do vậy, theo chúng tôi, cần tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Thủ Đức theo hướng tăng cường yếu tố “đa ngành, đa lĩnh vực” để một mặt giảm số lượng các đầu mối quản lý, mặt khác đảm bảo sự liên thông trong quản lý, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp đồng thời hạn chế những khoảng trống có thể phát sinh từ sự giao thoa giữa một số ngành, lĩnh vực.
Hiện nay, việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện được thực hiện theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/05/2014 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020). Điều này cũng đồng nghĩa với việc Chính phủ không có quy định đặc thù nào dành cho các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc thành phố. Cho nên, nếu không có gì thay đổi, ra mắt cùng với UBND thành phố Thủ Đức sẽ là 10 cơ quan chuyên môn được tổ chức gồm: Phòng Nội vụ; Phòng Tư pháp; Phòng Tài chính – Kế hoạch; Phòng Tài nguyên và Môi trường; Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; Phòng Văn hóa và Thông tin; Phòng Giáo dục và Đào tạo; Phòng Y tế; Thanh tra Thành phố; Văn phòng UBND. Ngoài ra, sẽ có hai cơ quan chuyên môn được tổ chức phù hợp với tính chất của chính quyền đô thị, đó là Phòng Kinh tế (nhằm tham mưu, giúp UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiểu thủ công nghiệp; khoa học và công nghệ; công nghiệp; thương mại; phòng, chống thiên tai) và Phòng Quản lý đô thị (nhằm tham mưu, giúp UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; hoạt động đầu tư xây dựng; phát triển đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao; nhà ở; công sở; vật liệu xây dựng; giao thông).
Theo chúng tôi, cần phải nghiêm túc tính đến yếu tố khoa học, hợp lý trong cách thức tổ chức và vận hành của hệ thống các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Thủ Đức, từ đó mới có thể thiết lập nên một UBND thành phố Thủ Đức đủ mạnh và hiệu quả. Muốn vậy, không thể không hướng đến các cơ quan chuyên môn đa ngành, đa lĩnh vực. Trước mắt, có thể sàng lọc, sắp xếp, sáp nhập một số phòng phụ trách những ngành, lĩnh vực gần gũi nhau, liên quan chặt chẽ với nhau, thường xuyên tương tác và hỗ trợ nhau trong quá trình tham mưu, giúp UBND thành phố Thủ Đức thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Từ sự sắp xếp, thu gọn đó, hướng đến việc hình thành hai bộ phận cơ quan chuyên môn: một bộ phận thực thi pháp luật (trật tự giao thông, đô thị, xây dựng, quản lý quy hoạch…) và cung ứng dịch vụ hành chính công theo thẩm quyền; các bộ phận khác hoặc chuyển về các sở chuyên ngành thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh hoặc tăng cường năng lực cho các phường trực thuộc[7]. Ngoài ra, cần tập trung đầu tư cho các cơ quan chuyên môn có vai trò, chức năng quan trọng, gắn liền với thế mạnh, tiềm năng và mục tiêu phát triển của thành phố Thủ Đức, cụ thể như Phòng Kinh tế, Phòng Quản lý đô thị, Phòng Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, đây đều là những cơ quan chuyên môn phụ trách đa ngành, đa lĩnh vực nên cần phải ưu tiên chỉ tiêu biên chế cho những vị trí việc làm có tính chuyên môn sâu của các ngành, lĩnh vực trọng yếu được xác định là những “mũi nhọn” của thành phố. Chẳng hạn, Phòng Kinh tế thuộc UBND thành phố Thủ Đức phải tuyển dụng được những công chức am tường sâu sắc về khoa học và công nghệ, công nghiệp, thương mại…; Phòng Quản lý đô thị cần phải chiêu mộ được những chuyên viên giỏi trong lĩnh vực giao thông, xây dựng, hạ tầng đô thị…
Hai là, UBND thành phố Thủ Đức cần phải được đổi mới về chế độ hoạt động.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cũng giống như UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác, UBND thành phố Thủ Đức hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo kết hợp với đề cao vai trò cá nhân người đứng đầu. Chế độ hoạt động này không chỉ phát huy được trí tuệ tập thể của UBND – một CQHCNN có thẩm quyền chung, quản lý toàn diện mọi ngành, mọi lĩnh vực trên phạm vi hành chính lãnh thổ mà còn giúp UBND xem xét, giải quyết các vấn đề đặt ra một cách thận trọng, khách quan. Tuy nhiên, cơ chế “thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số” cũng chứa đựng nhiều bất cập, trong đó không thể không kể đến hai hạn chế lớn nhất, cơ bản nhất và khó khắc phục nhất: mộtsự thiếu nhanh chóng, kịp thời (do mất nhiều thời gian bàn bạc); hai sự thiếu rõ ràng về chủ thể chịu trách nhiệm (do chồng chéo về thẩm quyền và lẫn lộn về vai trò giữa tập thể UBND và cá nhân người đứng đầu trong việc đưa ra các quyết sách quan trọng ở địa phương)[8]. Theo chúng tôi, nếu áp dụng và duy trì chế độ hoạt động này cho UBND thành phố Thủ Đức, những mong đợi của chúng ta về sự phát triển mang tính đột phá mà chính quyền thành phố thuộc thành phố có thể tạo ra sẽ khó lòng thành hiện thực. Bởi lẽ, dù có tăng cường thẩm quyền cho người đứng đầu, UBND thành phố Thủ Đức vẫn là một thiết chế quản lý mang tính tập thể, quyết định các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo phương thức làm việc tập thể là chủ đạo. Trong khi đó, quản lý nhà nước ở thành phố Thủ Đức cần phải thích ứng kịp thời với tốc độ phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của một địa phương vốn được định hướng để trở thành một “khu đô thị sáng tạo, tương tác cao”, “khu kinh tế động lực mới của thành phố Hồ Chí Minh trong tương lai”, “cực tăng trưởng mạnh mẽ nhất, lớn nhất của thành phố và khu vực”[9]...; cần phải có đủ sự chủ động và sự độc lập cần thiết trong việc đề ra các quyết sách táo bạo, mới mẻ; cần có những chỉ đạo, điều hành quyết đoán, dứt khoát, mau lẹ... Nghĩa là, cần đến một chế độ hoạt động mà ở đó đòi hỏi dấu ấn cá nhân mạnh mẽ của người “đứng mũi chịu sào”, đảm bảo sự minh bạch, rạch ròi trong việc quy kết trách nhiệm và luôn xác định được địa chỉ chịu trách nhiệm cuối cùng. Đó chính là chế độ thủ trưởng.
Theo chúng tôi, đối với UBND thành phố thuộc thành phố, việc chuyển từ chế độ tập thể lãnh đạo kết hợp với đề cao vai trò của người đứng đầu sang chế độ thủ trưởng là điều hoàn toàn có thể. Vì hiện nay, UBND làm việc theo chế độ tập thể lãnh đạo, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của UBND. Tuy nhiên, UBND chỉ họp định kỳ mỗi tháng một lần, các phiên họp bất thường chỉ được triệu tập trong những trường hợp nhất định theo quyết định của Chủ tịch UBND, theo yêu cầu của Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp hoặc theo yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên UBND[10]. Vì vậy, vai trò của Chủ tịch UBND gắn liền với sự điều hành thường xuyên, trực tiếp các hoạt động của UBND. Càng điều hành thường xuyên, trực tiếp, mức độ “phủ sóng” và tầm ảnh hưởng của Chủ tịch UBND ở địa phương càng lớn. Ngoài ra, Chủ tịch UBND còn giữ tiếng nói chi phối, quyết định trong Thường trực UBND, trong tập thể UBND, thậm chí là “linh hồn” của UBND. Bởi lẽ, về lý thuyết, tại phiên họp của UBND, với phương thức “thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số”, các thành viên của UBND và Chủ tịch UBND bình đẳng với nhau về lá phiếu nhưng trên thực tế người đứng đầu các cơ quan chuyên môn đồng thời là thành viên UBND đều do Chủ tịch UBND bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, cách chức, kỷ luật nên thật không dễ dàng để lá phiếu của họ hoàn toàn độc lập với lá phiếu của Chủ tịch UBND. Vậy thì tại sao không chuyển đổi chế độ hoạt động của UBND sang chế độ thủ trưởng? Trong khi điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc chính danh hóa vị thế, vai trò, ảnh hưởng của người đứng đầu trong CQHCNN ở địa phương, đồng thời xác định chủ thể chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của UBND trước Nhân dân, trước HĐND cùng cấp và trước pháp luật. Với chế độ thủ trưởng, tình trạng chồng chéo về thẩm quyền giữa tập thể UBND và người đứng đầu UBND sẽ được khắc phục. UBND là một khối thống nhất dưới sự điều hành thông suốt của Chủ tịch UBND. Và Chủ tịch UBND rõ ràng phải phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu (hiểu theo nghĩa tích cực) và sẵn sàng chịu trách nhiệm (hiểu theo nghĩa tiêu cực), bao gồm cả trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND[11].  Sự đùn đẩy trách nhiệm sẽ không có cơ hội để tiếp tục, vì vỏ bọc an toàn mang tên “trách nhiệm tập thể” sẽ biến mất, thay vào đó là sự minh bạch của trách nhiệm cá nhân[12].
Ba là, cần phải mở rộng thẩm quyền cho Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố.
Cùng với việc chuyển đổi chế độ hoạt động của UBND sang chế độ thủ trưởng, cần phải điều chỉnh thẩm quyền của Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức để đảm bảo sự tương xứng. Hiện nay, như đã đề cập ở trên, Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, biệt phái, khen thưởng, kỷ luật, đình chỉ công tác Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND các phường trực thuộc, người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc thành phố. Tuy nhiên, thẩm quyền này chỉ được thực hiện sau khi HĐND cùng cấp tiến hành bầu, bãi nhiệm các ủy viên UBND. Nói cách khác, tuy là người ra quyết định bổ nhiệm đối với các Trưởng phòng nhưng thực ra, Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố không có thẩm quyền lựa chọn các thành viên UBND như lựa chọn một “ê kíp” ăn ý cho mình trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Điều này sẽ không phù hợp với mô hình UBND hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Do vậy, theo chúng tôi, cần tăng cường thẩm quyền cho Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố về tổ chức bộ máy và nhân sự. Trước mắt, nếu chúng ta lựa chọn những bước đi thận trọng, chắc chắn thì có thể điều chỉnh theo hướng: cho phép Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố đề nghị nhân sự để HĐND phê chuẩn các chức danh Phó Chủ tịch và các Ủy viên UBND, sau đó Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố ra quyết định bổ nhiệm các thành viên này vào vị trí thủ trưởng các cơ quan chuyên môn cấp huyện. Trường hợp lựa chọn hướng đi mạnh mẽ hơn, theo chúng tôi, cần chuyển giao thẩm quyền quyết định nhân sự (như là một phần của chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương) từ HĐND sang Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố, tức là chỉ quy định HĐND cùng cấp bầu ra Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố, còn nhân sự UBND do Chủ tịch toàn quyền quyết định.
Bên cạnh đó, việc tăng cường thẩm quyền cho UBND và Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố cần gắn liền với xu hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý[13]. Nếu UBND và Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức chỉ nhận được sự phân cấp quản lý từ chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thì e rằng, những mục tiêu mà thành phố trong thành phố hướng đến sẽ chỉ là những kỳ vọng xa xôi. Vì vậy, UBND và Chủ tịch UBND thành phố Thủ Đức cần phải được trao thêm quyền hạn trong lĩnh vực tài chính ngân sách, lĩnh vực đầu tư công, quyền chủ động quyết định các vấn đề về hạ tầng kỹ thuật, giao thông đô thị, thu hút đầu tư, phòng, chống kẹt xe, ngập nước... để họ có đủ công cụ pháp lý thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đáp ứng yêu cầu ngày càng phức tạp của quản lý nhà nước đối với đô thị hiện đại.
Bốn là, cần tăng cường mối quan hệ giữa UBND thành phố thuộc thành phố với UBND các phường trực thuộc.
Đây là mối quan hệ giữa CQHCNN cấp trên trực tiếp với CQHCNN cấp dưới. Và theo nguyên tắc tập trung dân chủ - một trong những nguyên tắc cơ bản chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên nhằm đảm bảo thẩm cấp hành chính, đảm bảo trật tự kỷ cương trong hệ thống hành chính nhà nước. Điều này càng cần được nhấn mạnh trong chính quyền thành phố Thủ Đức, nơi không tổ chức HĐND phường, UBND phường hoạt động theo chế độ thủ trưởng và Chủ tịch UBND phường do Chủ tịch UBND thành phố thuộc thành phố bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, tạm đình chỉ công tác, khen thưởng, kỷ luật... Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, cần chú ý hai khuynh hướng: thứ nhất, UBND thành phố thuộc thành phố buông lỏng quản lý để mặc UBND các phường tùy tiện thực thi quyền lực nhà nước; thứ hai, UBND thành phố thuộc thành phố can thiệp thái quá, buộc UBND phường hoàn toàn phụ thuộc vào CQHCNN cấp trên trong quá trình điều hành, quản lý, giải quyết các vấn đề ở địa phương. Vì vậy, UBND thành phố Thủ Đức cần phải chú trọng yếu tố hài hòa trong mối quan hệ với chính quyền các phường trực thuộc. Có như vậy, chính quyền đô thị ở thành phố Thủ Đức mới có thể hoạt động thống nhất, đồng bộ và hiệu quả./.
 

 


[1] Khoản 1 Điều 8 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
[2] Khoản 4 Điều 5 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
[3] Như thẩm quyền quyết định cơ chế khuyến khích phát triển công trình hạ tầng đô thị trên địa bàn theo quy định của pháp luật; quyết định kế hoạch xây dựng công trình hạ tầng đô thị, quy hoạch phát triển đô thị theo quy định của pháp luật.
[4] Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết của Quốc hội về chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[5] Khoản 2 Điều 7 Nghị quyết của Quốc hội về chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[6] Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết của Quốc hội về chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
 
[7] Lê Thiên Hương (2011), Mô hình tổ chức chính quyền đô thị khi không tổ chức Hội đồng nhân dân, trong cuốn “Hiến pháp Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.879.
[8] Phạm Hồng Thái (2005), Xu hướng dịch chuyển quyền lực trong bộ máy hành chính và vấn đề dân chủ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6, tr. 5.
[9] Theo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Đề án thành lập thành phố Thủ Đức, tháng 8 năm 2020.
[10] Khoản 2 Điều 113 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)
[11] Bùi Thị Ngọc Mai (2016), Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 51 – tr. 62.
[12] Nguyễn Hữu Đổng (2015), Vấn đề “nguyên tắc tập trung dân chủ” trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 (290), tr. 10.
[13] Vũ Thư (2014), Phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 222, tr.12.

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 02 (425), tháng 1/2020.)