Hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Việt Nam

17/03/2021

GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

Trường Đại học Luật Hà Nội.

Tóm tắt: Công chức có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của chế độ, của đất nước. Cũng bởi tầm quan trọng như vậy nên Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ công chức, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng họ có đủ tài, đức, đủ năng lực tổ chức và biết cách tổ chức thực hiện chính xác, hiệu quả mọi nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm được giao.
Từ khóa: Đào tạo, bồi dưỡng công chức; đạo đức công vụ; pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Abstract: Public servants may provide a great influence on the quality of performance of the agencies and organizations, and they are is one of the factors determining the success or failure of the regime and the nation. Because of such importance, our Party and the State of Vietnam always pay special attention to the contingent of the public servants by identification, recruitment, training, and capacity building them with enough talent, virtue, organizational capacity for the accurate and effective implementation of all assigned tasks, powers, and mandates.
Keywords: training, and capacity building for public servants; public ethics; law on training and retraining of public servants.
 
 
1. Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Việt Nam
   Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức là hệ thống các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức chuyên nghiệp có năng lực, trình độ và phẩm chất để hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức là cơ sở pháp lý cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức, thể hiện cam kết của Nhà nước về việc nâng cao năng lực làm việc của công chức. Ngoài ra nó còn là cơ sở để quản lý nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức.đào-tạo-bồi-dưỡng-công-chức.jpg
Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay về cơ bản đã điều chỉnh khá toàn diện các khía cạnh khác nhau liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng công chức như xác định đối tượng, nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng; cơ sở thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng; quyền, nghĩa vụ của công chức được đào tạo, bồi dưỡng; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước xây dựng chương trình, phân bổ chỉ tiêu về đào tạo, bồi dưỡng; việc đánh giá, cấp chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng… Tuy vậy, một số quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức chưa theo kịp được nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng công chức giai đoạn hiện nay. Điều này biểu hiện ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, do công chức ở Việt Nam bao gồm không chỉ những người làm trong cơ quan nhà nước, mà còn có cả những người làm trong cơ quan đảng, cơ quan các tổ chức chính trị-xã hội nên việc đào tạo, bồi dưỡng công chức không chỉ do pháp luật điều chỉnh mà còn có cả các quy định của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị xã hội điều chỉnh.
Thứ hai, cũng do việc xác định đối tượng công chức khá rộng nên các loại nguồn điều chỉnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức rất đa dạng, nhất là các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành được ban hành ở mỗi cơ quan, tổ chức khác nhau làm cho tính thống nhất của chúng không cao và nội dung còn chung chung, chưa chi tiết cụ thể cho từng loại công chức.
Thứ ba, việc luân chuyển, hoán đổi vị trí cho nhau giữa cán bộ, công chức, viên chức giữa các cơ quan của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở Việt Nam diễn ra khá nhiều và thường xuyên cũng làm cho các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức không thể hiện rõ tính đặc thù riêng cho đối tượng công chức và thiếu ổn định.
Thứ tư, đời sống xã hội luôn phát triển, đội ngũ cán bộ, công chức cũng phải phát triển để theo kịp sự phát triển của nhu cầu quản lý xã hội, đặc biệt là sự phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đòi hỏi pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức phải hoàn thiện để có thể theo kịp được nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng công chức giai đoạn hiện nay đáp ứng sự phát triển của đất nước.
Từ những phân tích trên cho thấy, không ngừng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức là vấn đề mang tính quy luật và là một trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ công chức có năng lực, phẩm chất hoàn thành những nhiệm vụ được giao, trong đó cần tập trung xây dựng đội ngũ công chức nhất là công chức cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức trong giai đoạn hiện nay còn là vấn đề mang tính cấp thiết, xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cách mạng công nghiệp 4.0, xoá bỏ tình trạng đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, nhanh chóng đưa nước ta phát triển nhanh, bên vững.
Việc hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Việt Nam hiện nay cần tiến hành theo các quan điểm cơ bản sau: Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức phải thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về công chức, đào tạo, bồi dưỡng công chức; đáp ứng yêu cầu đòi hỏi về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, có năng lực, phẩm chất hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ, quyền hạn được giao trong điều kiện hiện nay; đổi mới công vụ, công chức; phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền; phải nằm trong tổng thể hoàn thiện pháp luật về giáo dục- đào tạo và hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay nói chung; bảo đảm tính hiện đại, tính khả thi, phù hợp với các điều kiện của đất nước; đi đôi với việc tổ chức thực hiện và bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tiễn; hướng tới yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục- đào tạo của Việt Nam theo hướng hiện đại, dân chủ và hội nhập quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào đào tạo, bồi dưỡng công chức.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần đẩy mạnh hoạt động rà soát, hệ thống hoá, nhất là tập hợp hóa các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức, nâng cao chất lượng của pháp luật đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng công chức của đất nước trong tình hình mới. Trước hết phải tổ chức rà soát, tổng kết, đánh giá đúng thực trạng đời sống pháp luật, xác định rõ nhu cầu điều chỉnh pháp luật, trên cơ sở đó hình thành kế hoạch xây dựng và thực hiện pháp luật phù hợp, tiến tới xây dựng chiến lược pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đồng thời phải chú trọng tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng đời sống pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Coi trọng tổng kết thực tiễn thực thi pháp luật, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định chi tiết, dễ hiểu, dễ thực hiện. Đồng thời, cần tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng các quy phạm pháp luật cùng loại, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội cùng loại ở các nước khác để đưa ra được những phương án có cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn phù hợp nhất đối với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đội ngũ công chức ở nước ta. Tổng kết thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng đời sống pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức là công việc phức tạp cần phải tiến hành thường xuyên ở những mức độ và quy mô khác nhau. Việc tổng kết và đánh giá đó bao gồm nhiều nội dung theo các tiêu chí sau: Mức độ đầy đủ của pháp luật hiện hành về đào tạo, bồi dưỡng công chức, xác định rõ những biểu hiện thừa và thiếu pháp luật để có biện pháp khắc phục. Tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức, xác định những mặt được và chưa được để phát huy những ưu điểm, phát hiện và loại bỏ những mâu thuẫn chồng chéo. Mức độ phù hợp của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức, phát hiện những bất hợp lý và bất cập để có những giải pháp khắc phục cụ thể như loại bỏ, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới.
 Việc đánh giá cần được tiến hành một cách toàn diện, có hệ thống, đồng thời phải đạt được những mục đích cụ thể, không nên chỉ đánh giá riêng rẽ từng văn bản, theo từng quy định mà cần rà soát, đánh giá tất cả các quy định pháp luật, phải chú ý tới tính hệ thống của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức nói riêng của cả hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung đối với bản thân pháp luật và quá trình thi hành chúng trên thực tế.
Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức phải được đánh giá bởi kết quả đào tạo, bồi dưỡng công chức không chỉ về số lượng mà cả chất lượng công chức đã được đào tạo, bồi dưỡng đang làm việc. Có thể nói, đội ngũ công chức ở Việt Nam hiện nay được đào tạo, bồi dưỡng khá nhiều nhưng hiệu quả chưa cao, một phần vì chương trình chưa được khu biệt đến từng nhóm, loại công chức theo vị trí việc làm. Do vậy, trong các văn bản quy định chi tiết việc thực hiện các quy định của Luật Cán bộ, công chức cần chú ý quy định các lớp bồi dưỡng kỹ năng có tính chất khu biệt cho từng nhóm công chức sao cho sát với vị trí việc làm của họ. Đồng thời, Nhà nước cũng xác đinh rõ hơn vị trí việc làm của công chức để có căn cứ đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Thứ hai, củng cố các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xây dựng pháp luật để thể chế hóa đúng, kịp thời đường lối chủ trương của Đảng về công tác cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong tình hình mới: Để hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức cần không ngừng tăng cường năng lực của các cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Năng lực đó được hợp thành từ nhiều yếu tố khác nhau như tổ chức, nhân sự, cơ chế, điều kiện vật chất kỹ thuật... Về nhân sự, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và bố trí những người có đủ năng lực cho các cơ quan tham gia xây dựng pháp luật để có thể quán triệt và thể chế hoá đúng, kịp thời cương lĩnh, chiến lược và các Nghị quyết của Đảng thành các quy định pháp luật cụ thể về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng họ.
Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nội vụ và các cơ quan khác, đồng thời tạo đủ những điều kiện cần thiết cho hoạt động xây dựng pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Củng cố cơ quan pháp chế ngành, bảo đảm cho cơ quan này có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ phù hợp, tham gia tích cực vào quá trình xây dựng hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức của ngành. Cần xây dựng cơ chế thu hút đông đảo các nhà khoa học, giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và các cán bộ quản lý đào tạo, bồi dưỡng thực tiễn tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật. Ngoài ra cần mở rộng dân chủ trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức để mọi tầng lớp nhân dân có thể tham gia tích cực và có chất lượng trong việc đóng góp ý kiến vào nội dung các bản dự thảo.
Có chính sách đãi ngộ, động viên khuyến khích đối với cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Nhà nước cần có chính sách chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh thần cho những người làm công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quy trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức:Pháp luật phải xác định đúng, phù hợp nội dung, phương pháp và hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho từng nhóm, loại công chức. Đây là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay. Trên cơ sở xác định nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức phù hợp với từng nhóm công chức để từ đó xác định hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức phù hợp với nội dung là giải pháp quan trọng mang tính đột phá. Các quy định pháp luật về quy trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức chủ yếu mang tính nguyên tắc, việc cụ thể chúng ở mỗi cơ sở đào tạo thường có sự khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện của cơ sở mình nên tính thống nhất không cao.
Một trong những hạn chế của pháp luật hiện hành về đào tạo, bồi dưỡng công chức chính là ở việc ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành thường chậm so với yêu cầu hoặc là chưa đủ mức độ chi tiết để có thể tổ chức thực hiện và thực hiện thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị trong cả nước. Do vậy, thời gian tới cần tập trung vào nhiều hơn vào công tác này. Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ các bộ, các ngành, các địa phương cần ban hành thật chính xác, kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Cán bộ, công chức về đào tạo, bồi dưỡng công chức.
Trong pháp luật chưa tạo ra được sự thống nhất về quy trình, nội dung, hình thức đào tạo thống nhất giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức dẫn đến tình trạng nhiều nội dung, chương trình đào tạo trùng lặp. Điều này làm cho việc đào tạo, bồi dưỡng công chức ở nước ta vẫn còn lãng phí, bất cập. Bởi ở nước ta hầu như tổ chức nào trong hệ thống chính trị cũng có trường đào tạo, bồi dưỡng nên đội ngũ cán bộ, công chức quản lý ở nước ta buộc phải trải qua việc học tập ở nhiều các loại trường khác nhau. Mà nội dung chương trình đào tạo của các trường nói trên có sự trùng lặp quá nhiều, như vậy, gây lãng phí về thời gian, về công sức, về tiền của nhà nước và xã hội, đồng thời làm giảm thời gian và sức lực cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức. Thông thường cán bộ, công chức quản lý và lãnh đạo ở nước ta đều phải học qua các trường đào tạo của Đảng và trường đào tạo về quản lý nhà nước của Nhà nước hoặc một trường bồi dưỡng của tổ chức xã hội nào đó, song chương trình đào tạo của các loại trường này không khỏi có những sự trùng lặp nhất định. Một số môn học đã được học ở Học viện Hành chính quốc gia rồi lại phải học lại ở Học viện Chính trị quốc gia, thậm chí có môn còn được học ở các trường đại học rồi. Việc đào tạo, bồi dưỡng như vậy, dễ tạo ra sự nhàm chán, chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng sẽ không cao. Do vậy, nếu các cơ sở đào tạo đều đào tạo có sự liên thông theo kiểu cấp tín chỉ (những bộ phận kiến thức nào đã được tích luỹ đủ sẽ không phải học lại nữa) thì sẽ tiết kiệm cho cán bộ, công chức lãnh đạo và quản lý ở nước ta được rất nhiều thời gian, công sức, tiền của trong việc phải học đi, học lại những tri thức trùng lặp. Để tiết kiệm cần có sự liên kết trong đào tạo giữa các trường của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội.
Đảng và Nhà nước ta cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, phát triển cán bộ, công chức trong tổng thể. Tổ chức lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo hướng liên thông hoặc đào tạo, bồi dưỡng theo tín chỉ ở tất cả các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức lãnh đạo và quản lý các cấp. Khắc phục tình trạng có quá nhiều trường và sự đào tạo trùng lặp về chương trình như hiện nay gây tốn kém, lãng phí và hiệu quả đào tạo thấp.
Điều 17 của Nghị định số 101/2017/NĐ- CP về Chương trình, tài liệu bồi dưỡng, nên quy định khu biệt các nhóm đối tượng theo vị trí việc làm nhỏ hơn, có như vậy thì việc lập chương trình và tài liệu bồi dưỡng sẽ sát với vị trí việc làm của các nhóm loại, công chức hơn. Trong chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức phải vừa khắc phục được những hạn chế của việc đào tạo trước khi tuyển dụng, vừa bổ sung thêm những kiến thức mới, nhất là kiến thức phục vụ trực tiếp cho vị trí việc làm của họ. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng không cần quá dài, nhưng phải thiết thực với đối tượng người học. Cần tăng cường đào tạo kỹ năng thực hành công việc, không nên chú trọng quá nhiều vào việc đào tạo lý thuyết. Cùng với việc đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng thì cần phải đổi mới cả công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng đối với người học. Chỉ có kiểm tra, đánh giá nghiêm túc thì cán bộ, công chức mới chịu khó học, mới học thực sự và chất lượng đào tạo mới được nâng cao. Giáo viên không nên vì học viên là công chức mà nể nang, e ngại trong việc đánh giá, không dám cho điểm thấp, mặc dù người học xứng đáng nhận điểm thấp.
Pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức, đặc biệt là trong các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cần quy định cụ thể hơn về tỷ lệ giữa các môn chính trị với các môn chuyên môn sao cho thiết thực hơn với công chức. Trong bồi dưỡng cần cập nhật nhiều hơn đến những thay đổi của của pháp luật, của cuộc sống trong và ngoài nước, tránh tình trạng kinh viện. Ngoài ra, cần bổ sung các môn liên quan đến đạo đức công chức, đạo đức công vụ và ý thức trách nhiệm đối với nhân dân, với đất nước của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phải làm sao để cán bộ, công chức, viên chức thực sự tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu đối với nhân dân.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, có biện pháp khuyến khích công chức tự đào tạo:Quản lý công tác Đ đào tạo, bồi dưỡng công chức là một công việc quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức. Do vậy, hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức để việc cử người đi đào tạo được đúng với quy định, việc đào tạo và sử dụng công chức sau đào tạo, bồi dưỡng có hiệu quả. Để nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ công chức, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII đã khẳng định phải: "Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch"[1]. Một khi đã trao nhiều quyền cho người phụ trách, nhất là thủ trưởng các cơ quan trong việc tuyển chọn, sử dụng công chức dưới quyền thì cũng phải quy định trách nhiệm cho những người đó để trách tình trạng tùy tiện, lợi dụng quyền lực trong tuyển chọn, sử dụng công chức để tham nhũng, vụ lợi… Thực tiễn cho thấy, có một số người được tuyển chọn làm cán bộ, công chức nhưng không qua đào tạo, không có chuyên môn nên khả năng thực hiện công việc rất hạn chế. Do vậy, cần thực hiện chính sách phải đào tạo rồi mới bổ nhiệm, tránh hiện tượng người phụ trách, thủ trưởng cơ quan, đơn vị nhận người rồi mới bố trí đi đào tạo, bồi dưỡng.
Để khuyến khích công chức tự đào tạo, có ý thức trong đào tạo để vươn lên đảm nhiệm những cương vị quản lý, lãnh đạo cao hơn hoặc có thể chuyển đổi vị trí việc làm trong cơ quan thì các quy định pháp luật về quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cần linh hoạt và chi tiết hơn. Chẳng hạn, pháp luật có thể cho phép công chức tự lựa chọn các khóa đào tạo, bồi dưỡng hoặc tự túc kinh phí để được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Đào tạo, bồi dưỡng ở trường lớp chỉ là cung cấp những kiến thức mang tính chất cơ bản, gợi mở và do vậy, không bao giờ đầy đủ và hoàn chỉnh. Muốn có người công chức hoàn thiện các cơ quan, đơn vị còn phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng họ ngay tại cơ quan, đơn vị mình bởi những đồng chí, đồng nghiệp có kinh nghiệm đang công tác tại cơ quan, đơn vị. Người công chức còn phải tự đào tạo, tự rèn luyện đào tạo thông qua kinh nghiệm bản thân, thông qua quan sát, học hỏi đồng nghiệp, đồng chí xung quanh mình. Có thể nói, giữa đào tạo, bồi dưỡng và tự đào tạo, bồi dưỡng là hai quá trình nối tiếp nhau liên tục không ngừng nghỉ mà người công chức phải luôn tâm niệm. Do vậy, cần thể hiện chi tiết hơn khoản 3 Điều 3 của Nghị định số 101/2017/NĐ- CP về việc tự học của công chức, để công chức có thể được đăng ký dự thi nâng ngạch, đăng ký dự thi thăng hạng, được xét bổ nhiệm vào ngạch, hạng và được học chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp cao hơn liền kề hoặc được dự thi vào các chức vụ quản lý, lãnh đạo hay chuyển đổi vị trí việc làm phù hợp hơn với năng lực của bản thân.
Thứ năm, củng cố, hoàn thiện các điều kiện thực tế bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Nhà nước cũng cần đầu tư nhiều hơn nữa về vật chất và con người cho công tác tổ chức thi hành pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Điều này đã được Đảng ta nhấn mạnh là “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa[2]. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ công chức làm công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là những người làm công tác nghiên cứu lý luận pháp lý, những người trực tiếp giảng dạy, đào tạo... Sự đầu tư không chỉ đòi hỏi về vật chất mà cả thời gian, công sức, trí tuệ và con người cho các hoạt động nói trên. Ngoài ra còn phải đầu tư cho các hoạt động xã hội khác để tạo ra môi trường và điều kiện thuận lơị bảo đảm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức đạt hiệu quả cao.
Các cấp các ngành cần nhận thức đúng đắn và coi trọng sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng công chức. Thiết lập bầu không khí dân chủ, tự do sáng tạo trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức. Không ngừng nâng cao năng suất lao động, thực hành tiết kiệm là quy luật cho bất kỳ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển, đồng thời đó cũng là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi không ngừng phát triển và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào các hoạt động điều chỉnh pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Không những phải chú trọng hơn nữa công tác nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, mà còn phải ứng dụng có hiệu quả các thành tựu nghiên cứu vào các lĩnh vực hoạt động pháp luật.
Cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại như công nghệ thông tin vào việc khảo sát, thăm dò dư luận xã hội, thẩm định các dự án pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Sử dụng có hiệu quả những thành tựu của công nghệ thông tin vào việc tiếp nhận và xử lý các tư liệu pháp lý trong và ngoài nước phục vụ hoat động xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Thành lập các trung tâm thông tin pháp lý để có thể cung cấp tương đối đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết cho Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia vào quá trình xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Tạo cho các cơ quan, các cá nhân đó khả năng lựa chọn và quyết định các vấn đề pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng công chức của đất nước một cách chính xác và phù hợp nhất. Khi ban hành, sửa đổi bất kỳ một qui định pháp luật cụ thể nào về đào tạo, bồi dưỡng công chức cũng phải chú ý đến tính hữu ích của nó, hạch toán những chi phí về vật chất, những ảnh hưởng về chính trị, về đạo đức và những ảnh hưởng khác có thể có đối với việc ban hành, sửa đổi qui định đó sao cho những chi phí, tổn hại đó có thể chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay.
Thứ sáu, tổ chức sắp xếp lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Ở nước ta hiện nay rất nhiều tổ chức có hệ thống cơ sở đào tạo cán bộ, công chức, viên chức, mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cho một hoặc một số loại cán bộ, công chức, viên chức khác nhau. Đã đến lúc phải tổ chức, sắp xếp lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Có thể nói, hiện nay trừ các trường của Đảng có nguồn học viên dồi dào, còn lại các trường khác đều không đào tạo, bồi dưỡng hết công suất (khả năng) của mình và như vậy lãng phí về đội ngũ cán bộ quản lý và giảng dạy, lãng phí về cơ sở vật chất. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực về nhân lực và vật chất đang có các cơ sở đào tạo này buộc phải mở rộng các chuyên ngành đào tạo sang những lĩnh vực không đúng với sứ mạng (chức năng, nhiệm vụ) của cơ sở mình khi được thành lập. Việc đào tạo như vậy không những không đúng với chức năng, nhiệm vụ của các trường mà chắc chắn chất lượng đào tạo sẽ không cao vì không đúng sở trường của các cơ sở nêu trên. Do vậy, cần quy hoạch lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức theo hướng tổ chức lại thành ba nhóm: (i) Hệ thống các trường của Đảng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đảng; (ii) Hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nhà nước; (iii) Hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội cho các tổ chức chính trị xã hội còn lại. Trong hệ thống các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội sẽ có khoa đào tạo chung và các khoa nghiệp vụ về công tác hội tương ứng với mỗi tổ chức hội. Khi này trong chương trình sẽ có phần chung cho tất cả các đối tượng và các phần riêng dành cho công tác hội của mỗi loại hội. Như vậy, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng sẽ được thu gọn, bộ máy quản lý, điều hành sẽ giảm đi, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng sẽ tăng lên.
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau về chương trình đào tạo, về việc sử dụng đội ngũ giảng viên để có thể công nhận, kế thừa những nội dung đã được đào tạo ở các cơ sở khác. Tất cả các cơ sở đều phải chuyển sang đào tạo theo tín chỉ, học viên học xong môn học nào thì tổ chức thi, đánh giá và cấp chứng chỉ đã học đạt yêu cầu môn học đó. Sau này nếu có phải đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình khác thì những môn học nào, những bộ phận kiến thức nào đã được tích lũy đủ thì sẽ không phải học lại, tiết kiệm cho cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo và quản thời gian, công sức, tiền của trong việc phải học đi, học lại những môn học, những bộ phận kiến thức trùng lặp.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức. Cần sửa đổi Chương IV (Giảng viên) Nghị định số 101/2017/NĐ- CP theo hướng bổ sung quy định về sự luân chuyển giảng viên giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Sự luân chuyển giảng viên như vậy vừa giúp cho giảng viên có điều kiện nâng cao trình độ lý luận khi làm việc tại cơ sở đào tạo (khi giảng dạy tại cơ sở giảng viên có thể vừa giảng dạy vừa tham gia nghiên cứu khoa học hoặc học thêm trình độ cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ), vừa giúp họ có điều kiện nâng cao tay nghề khi trực tiếp thi hành công vụ tại các cơ quan, đơn vị. Như vậy, cơ sở đào tạo chỉ có bộ khung quản lý và không có giảng viên cơ hữu cố định.
Thực hiện chính sách luân chuyển những giảng viên chuyên nghiệp ở các cơ sở hiện nay đi trực tiếp làm nghề tại các cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội khác. Sau một thời gian làm nghề họ lại có thể được luân chuyển về cơ sở đào tạo để tiếp tục giảng dạy. Từng bước tăng dần đội ngũ giảng viên thỉnh giảng theo lộ trình mà Đề án sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan trong hệ thống chính trị đến năm 2030 quy định. Chọn những người giỏi làm nghề từ các cơ quan nói trên, có khả năng sư phạm về làm công tác giảng dạy luân phiên như đã trình bày ở trên.
Thứ tám, tuyển dụng, tuyển chọn, bố trí, sử dụng công chức đúng với chuyên môn mà họ đã được đào tạo, bồi dưỡng: Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội chú trọng những người đã được đào tạo, bồi dưỡng đúng chuyên môn và có chất lượng vào đúng vị trí việc làm. Có rất nhiều người được đào tạo ở các trình độ khác nhau nên các ứng viên cho những vị trí việc làm cũng khá đông và đa dạng. Về nguyên tắc ứng viên để được tuyển chọn, tuyển dụng làm công chức phải được đào tạo có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển chọn, tuyển dụng. Đối với những trường hợp đặc biệt như vùng biên giới, hải đảo, vùng có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống nếu không có đủ người có trình độ chuyên môn thì mới tuyển chọn, tuyển dụng người chưa được đào tạo làm công chức. Tránh trường hợp lợi dụng tuyển chọn, tuyển dụng “những người có quan hệ” làm công chức nhưng không qua đào tạo, không có chuyên môn vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhằm giữ chỗ rồi sau mới cử đi đào tạo, bồi dưỡng bằng kinh phí của cơ quan, đơn vị.
3. Kết luận
Có thể khẳng định rằng, chính sách, pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức ở nước ta đã và đang từng bước được hoàn thiện, Đảng, Nhà nước và xã hội luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ công chức, song thực tế chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức ở nước ta chưa cao, chưa hiệu quả. Một bộ phận công chức được đào tạo, bồi dưỡng qua rất nhiều trường, lớp nhưng trình độ, năng lực, phẩm chất vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn lãnh đạo, quản lý đất nước trong hiện tại và tương lai.
Cuộc sống luôn vận động, biến đổi không ngừng, các quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức cùng với thời gian sẽ trở nên lạc hậu, mất dần đi tính hiệu quả của mình và thậm chí có thể dần từng bước đưa lại những lãng phí, thiệt hại nhất định cho xã hội. Vì vậy, cần phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức xem "trên thực tế đang diễn ra cái gì, thực tế đã đạt được những gì" từ những thông tin đó không ngừng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng công chức nói riêng, hệ thống pháp luật của đất nước nói chung để thực hiện quan điểm của Đảng là: "Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân. Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài"[3] phục vụ nhu cầu quản lý và phát triển đất nước vì hạnh phúc của nhân dân./.

 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr .116-117.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 176.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 54.
 

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 23 (423), tháng 12/2020.)


Ý kiến bạn đọc