Kiểm toán doanh nghiệp trong điều kiện thực hiện Luật Doanh nghiệp và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước

01/05/2015

ThS.NGUYỄN HỒNG LONG

Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI

ThS. ĐỖ THỊ LAN HƯƠNG

Kiểm toán Nhà nước

1. Thực tiễn áp dụng Luật Doanh nghiệp trong thực hiện kiểm toán lĩnh vực doanh nghiệp của Kiểm toán nhà nước
1.1. Những đòi hỏi tăng cường quản lý hoạt động của doanh nghiệp
Trước năm 2005, việc quản lý hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp luật được thực hiện thông qua Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) năm 2003. Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đã thống nhất quản lý doanh nghiệp thông qua một Luật, thay thế cho hai đạo luật trước đó. Mục tiêu ban hành và thống nhất quản lý doanh nghiệp chỉ bằng một Luật đã tạo được môi trường pháp lý thống nhất, bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng.
Đánh giá việc thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005 thời gian qua cho thấy, Luật đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường công tác quản lý nhà nước và tạo thuận lợi cho thực tiễn vận hành của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật cũng còn những hạn chế, tồn tại cần khắc phục, đặc biệt công tác quản lý các DNNN và các đơn vị có vốn đầu tư của Nhà nước vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, Luật Doanh nghiệp cần có những sửa đổi, bổ sung phù hợp; đồng thời các văn bản luật pháp khác có liên quan (trong đó có Luật Kiểm toán nhà nước - KTNN) cũng cần có những sửa đổi, điều chỉnh tương ứng nhằm đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cụ thể cần xem xét một số nội dung sau:
- Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, các công ty nhà nước thành lập theo quy định của Luật DNNN năm 2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hoặc công ty cổ phần trong thời hạn chậm nhất là đến 01/7/2010. Tuy nhiên, xuất phát từ cả những yếu tố chủ quan và khách quan, việc chuyển đổi mô hình doanh nghiệp còn có những bất cập, hạn chế. Theo đó, việc chuyển đổi sang mô hình công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn chưa tạo nên nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ so với mô hình trước đó; các công ty nhà nước chuyển đổi sang công ty cổ phần cũng chưa phát huy được vai trò, chưa cải thiện hiệu quả hoạt động như mong đợi. Thay đổi mô hình hoạt động của các công ty nhà nước đòi hỏi phải thay đổi phương thức quản lý nhưng thực tế cho thấy, phương thức quản lý của các cơ quan nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp này còn lúng túng, vướng mắc (vấn đề chủ sở hữu, vai trò của chủ sở hữu vốn nhà nước, người đại diện vốn, trách nhiệm của các bên liên quan …). Một số doanh nghiệp còn vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp về phân cấp tổ chức bộ máy và quản lý tài chính; vi phạm về loại hình và đăng ký kinh doanh; vi phạm trong tuân thủ về quản lý tài chính kế toán và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước; trong quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên; chính sách với người lao động …  
- Thực hiện chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế, việc thực hiện tái cấu trúc các DNNN đòi hỏi thu gọn đầu mối các DNNN, Nhà nước chỉ nắm giữ các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực then chốt. Như vậy, số lượng các DNNN do Nhà nước nắm giữ có xu hướng thu hẹp lại, trong khi đòi hỏi về vai trò của các doanh nghiệp này đối với nền kinh tế và yêu cầu quản lý nhà nước về kinh tế lại ngày một tăng lên. Đứng trước thách thức này, việc tổ chức quản lý DNNN cần phải nhìn nhận lại ở phạm vi rộng hơn để có biện pháp cải tiến phương thức quản lý tích cực, hiệu quả hơn. Theo đó, cần phải quản lý, kiểm tra, giám sát cả những doanh nghiệp không hoạt động trong lĩnh vực then chốt nhưng có ảnh hưởng lớn hoặc có mức giá trị đầu tư của Nhà nước ở mức cao.
- Tiêu chí xác định DNNN tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 “là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”. Tiêu chí xác định tỷ lệ tương đối này dựa trên các quy định về loại hình doanh nghiệp tại Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế lại gây khó khăn cho việc xác định đối tượng quản lý, kiểm soát một cách hiệu quả, toàn diện phần vốn nhà nước. Theo đó, tại nhiều doanh nghiệp, vốn nhà nước nắm giữ với tỷ lệ cao nhưng giá trị tuyệt đối rất thấp; ngược lại có DNNN sở hữu vốn điều lệ với tỷ lệ % thấp lại có số tuyệt đối rất lớn. Ví dụ: 02 Công ty thuộc Tổng công ty Bưu chính được Nhà nước nắm giữ 100% vốn nhưng số vốn tuyệt đối ở Công ty Tem Bưu chính là 18.721 triệu đồng và Công ty In tem Bưu điện là 13.109 triệu đồng. Trong khi đó, Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng thuộc EVN có tỷ lệ Nhà nước nắm giữ vốn là 48,25% nhưng giá trị vốn góp tuyệt đối là 2.284.603 triệu đồng; Tổng công ty cổ phần Phong Phú thuộc Tập đoàn Dệt may có vốn nhà nước chiếm 46,8% nhưng số vốn tuyệt đối là 292.500 triệu đồng. Như vậy, để đảm bảo quản lý, kiểm soát tốt phần vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp thì Luật Doanh nghiệp cần bổ sung quy định hướng dẫn, và/hoặc các luật có liên quan đến việc quản lý, kiểm soát đầu tư vốn nhà nước phải điều chỉnh quy định để đảm bảo cho việc quản lý nguồn lực nhà nước có hiệu lực, hiệu quả.
1.2. Yêu cầu đặt ra đối với KTNN trong thực hiện kiểm toán lĩnh vực doanh nghiệp
Sau đổi mới, mô hình phát triển kinh tế đất nước đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân lựa chọn, đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và các văn bản pháp luật. Hiến pháp năm 2013 vẫn kế thừa và tiếp tục khẳng định lại “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”[1]. Quy định này cho thấy, lựa chọn vận hành nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tiếp tục được Việt Nam khẳng định, và đó cũng là tất yếu để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Vấn đề cần trao đổi và giải quyết là nghiên cứu để thể chế hóa quy định của Hiến pháp tại các văn bản quy phạm pháp luật, nghiên cứu triển khai áp dụng trong thực tiễn nhằm đảm bảo “định hướng XHCN” để vừa tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển, vừa đảm bảo cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh, giai đoạn hiện nay.
 Qua gần 20 năm hoạt động và phát triển, KTNN với chức năng, nhiệm vụ của mình đã có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vừa qua, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, KTNN có vinh dự được bổ sung và xác lập địa vị pháp lý trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 quy định: “KTNN là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công”[2]. Với quy định của Hiến pháp, phạm vi kiểm toán của KTNN sẽ rộng hơn, bao trùm hơn so với quy định của Luật KTNN hiện hành chỉ là “cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước[3]” và đối tượng là “hoạt động có liên quan đến quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước[4]”.
1.3. Thực trạng kiểm toán một số doanh nghiệp là các đơn vị Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệ
  Luật KTNN liên quan đến hoạt động kiểm toán trong lĩnh vực doanh nghiệp, đặc biệt là quy định về tiêu chí xác định DNNN tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 “là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”, và Luật KTNN hiện hành quy định đơn vị được kiểm toán của KTNN là “DNNN[5]”. Như vậy, KTNN chỉ có thể thực hiện kiểm toán đối với các DNNN “do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”; còn những doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn không phải là đối tượng của KTNN. Tuy nhiên, thực trạng kiểm toán một số doanh nghiệp là các đơn vị Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn điều lệđang cho những kết quả thú vị và quy định KTNN chỉ có thể thực hiện kiểm toán đối với các DNNN “do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ” đang trở nên bất hợp lý, vì:
- Trong trường hợp chỉ kiểm toán các DNNN do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, sẽ dẫn đến tình trạng có một phần giá trị rất lớn vốn nhà nước được đầu tư vào các công ty liên doanh, liên kết, công ty con, công ty cháu ... không kiểm soát, kiểm toán được dòng tiền. Trong khi đó, đòi hỏi kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công không phân định theo tỷ lệ mà đòi hỏi xuất phát từ nhu cầu quản lý, quản trị của Nhà nước.
- Hiện tại và trong giai đoạn 2015-2020, khi thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế trong đó có tái cấu trúc DNNN theo Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ thì hầu hết các công ty xây dựng, công ty dịch vụ đều được thoái vốn, trong đó Nhà nước chỉ chiếm tỷ lệ dưới 50% vốn hoặc thoái toàn bộ, trong khi đó, để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia thì các doanh nghiệp này đều có tham gia vì được sử dụng nguồn từ ngân sách nhà nước (NSNN) như các dự án quốc gia, ưu đãi lãi suất từ thu mua lúa gạo, khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản hoặc các quỹ hình thành từ xã hội như Quỹ bình ổn giá xăng dầu ... Như vậy, nếu các đơn vị này không nằm trong phạm vi đối tượng của KTNN thì sẽ không kiểm tra, giám sát được nguồn lực của Nhà nước thông qua loại hình kiểm toán hoạt động. Hơn nữa, Nhà nước không chỉ sử dụng các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực then chốt với tỷ lệ vốn chi phối (trên 50%) làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, mà cần phải xem xét cả vai trò của chủ sở hữu vốn khi tham gia đầu tư vốn cùng các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế khác, nhất là những khoản đầu tư có giá trị lớn (Nhà nước cần xây dựng tiêu chí về độ lớn nhất định của giá trị đầu tư). Có như vậy, mục tiêu quản lý nhà nước về kinh tế mới đạt được hiệu quả mong đợi, đặc biệt trong điều kiện các đầu mối DNNN đang ngày một thu hẹp. Để đánh giá vai trò của chủ sở hữu vốn, trách nhiệm của người đại diện vốn và đưa ra các giải pháp khắc phục hạn chế, tồn tại trong lĩnh vực này, Nhà nước cần thiết phải tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát.
- Thực tiễn hoạt động kiểm toán của KTNN thời gian qua cho thấy, việc thực hiện kiểm toán một số doanh nghiệp không phải là DNNN theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, ... đều cho kết quả tốt, chỉ ra và yêu cầu khắc phục nhiều hạn chế, tồn tại, yếu kém từ cả phía doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý nhà nước, góp phần lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia.
Đồng thời, KTNN đã tiến hành kiểm toán tại một số các DNNN không giữ quyền chi phối[6] (từ dưới 50% vốn) nhưng có giá trị tuyệt đối đầu tư vốn khá lớn, thậm chí có đơn vị Nhà nước không nắm giữ vốn nhưng thực hiện dịch vụ có sử dụng nguồn NSNN. Kết quả kiểm toán thu được từ những cuộc kiểm toán này cho thấy, KTNN không chỉ đơn thuần kiến nghị các doanh nghiệp tăng nộp các khoản thuế và nghĩa vụ tài chính còn ẩn lậu cho NSNN mà còn kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước giải quyết những tồn tại liên quan đến cơ chế, chính sách quản lý tài chính; kiến nghị giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Quan trọng hơn nữa, KTNN đã kiến nghị các đơn vị được kiểm toán thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành; tư vấn cách thức quản trị doanh nghiệp nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp trong đó có lợi ích của Nhà nước. Điển hình như:
(i) Năm 2009, KTNN Việt Nam phối hợp với KTNN Liên bang Nga cùng thực hiện kiểm toán Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro theo thỏa thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga. Đây là đơn vị liên doanh với số vốn đầu tư của hai bên tương đối lớn, hoạt động theo mô hình đồng kiểm soát, cơ chế hoạt động được thực hiện theo Hiệp định Ký kết giữa hai quốc gia Việt Nam - Liên Xô (sau này Liên bang Nga tiếp tục tiếp nhận và tiếp tục hợp tác đầu tư) theo đó phía Việt Nam nắm giữ 49% vốn. Kết quả kiểm toán của KTNN Việt Nam đưa ra và được hai bên nhất trí thực hiện là: tăng nộp cho NSNN Việt Nam 11,9 triệu USD tiền thuế giá trị gia tăng và các khoản thuế liên quan; kiến nghị hai phía đối tác từ cấp Chính phủ và các đơn vị quản lý trực tiếp Liên doanh có những biện pháp khắc phục tồn tại, định hướng hợp tác khai thác trong điều kiện những biến động về chi phí hoạt động, chi đầu tư tìm kiếm tăng nhưng giá dầu biến động giảm và thất thường; kiến nghị mô hình hợp tác tương lai[7]
(ii) Năm 2009, thực hiện cuộc kiểm toán chuyên đề bù lỗ các mặt hàng dầu giai đoạn 2006 - 2008, KTNN đã tiến hành kiểm toán chuyên đề cấp bù lỗ đối với Công ty Xuất nhập khẩu Thanh Lễ là đơn vị không có vốn đầu tư của Nhà nước nhưng là doanh nghiệp đầu mối thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu và thuộc đối tượng được cấp bù lỗ từ NSNN. Kết quả kiểm toán đã kiến nghị giảm cấp bù lỗ từ ngân sách 6.590 triệu đồng, kiến nghị đơn vị chấn chỉnh công tác quản lý kinh doanh xăng dầu, kiến nghị Bộ Tài chính xem xét lại một số quy định không còn hợp lý liên quan đến yêu cầu tiết kiệm chi phí 5% kinh doanh xăng dầu so với năm trước …
(iii) Kết quả kiểm toán năm 2009 với Báo cáo tài chính năm 2008 của Công ty Cổ phần FPT theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ cũng đạt những kết quả đáng ghi nhận. Đây là Công ty cổ phần kinh tế lớn hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ thông tin, trong đó Nhà nước chỉ đầu tư 7,5% vốn điều lệ. Kết quả kiểm toán đã chỉ ra những bất cập trong hệ thống quản trị nội bộ doanh nghiệp và hệ thống quản trị tính thuế theo quy định. Kiến nghị tăng thu NSNN 10,7 tỷ đồng; kiến nghị UBND Đà Nẵng thu hồi hoặc tính tiền thu về sử dụng đất 4.100 m2; kiến nghị Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế xem xét lại phương thức quản lý, tính thuế đối với Tập đoàn …
(iv) Năm 2014, thực hiện kiểm toán chuyên đề tạm trữ và thu mua lúa gạo, kiểm toán chuyên đề giá xăng dầu trong đó có Quỹ bình ổn giá xăng dầu thì đối tượng kiểm toán có một số là các DNNN chiếm cổ phần dưới 50% hoặc không có cổ phần.
Như vậy, có thể nhận thấy kết quả kiểm toán từ các đơn vị Nhà nước không nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên cũng rất lớn, có giá trị cao trong việc đạt mục tiêu kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước theo quy định của Luật. Cũng thông qua những kết quả nêu trên, nếu xét trên giá trị tuyệt đối của giá trị tài sản, tiền vốn mà Nhà nước đầu tư cho nhiều doanh nghiệp “không phải là DNNN” có thể rất lớn trong khi nhìn dưới góc độ tỷ lệ tương đối về nắm giữ tiền vốn trong các doanh nghiệp này lại rất nhỏ (ví dụ như Nhà nước nắm giữ 238 tỷ đồng vốn cổ phần trong khi tỷ lệ góp vốn chỉ chiếm 7,5% vốn điều lệ tại Công ty cổ phần FPT; EVN đầu tư góp vốn vào Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình là 32,65% nhưng số vốn góp lên tới 751,3 tỷ đồng, trong khi đó Công ty cổ phần Xây lắp Điện lực vốn nhà nước chiếm 51% chỉ là 10,2 tỷ đồng …).
 - Một số quốc gia đã đưa vào quy định của Luật với quan điểm “ở đâu có tiền, tài sản của Nhà nước thì phải được kiểm toán”. KTNN Trung Quốc thì đã luật hóa quy định cụ thể cả số tương đối (tỷ lệ %) và số tuyệt đối phần vốn nhà nước tham gia vào các doanh nghiệp để xác định đối tượng kiểm toán, góp phần mở rộng đối tượng kiểm toán và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát hoạt động quản lý, sử dụng vốn nhà nước.
Vì vậy, nếu chỉ lấy tiêu chí chỉ số tỷ lệ tương đối làm căn cứ để ra quyết định kiểm toán vốn và tài sản nhà nước là chưa thực sự hợp lý và thỏa đáng. Về mặt luật pháp và chính sách nếu không được điều chỉnh sẽ tạo ra những khoảng trống hay “vùng tối” trong việc Nhà nước để mất vai trò khi sử dụng các công cụ công để kiểm tra, giám sát việc khai thác, sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nói chung. Cùng một logic đó cho thấy, KTNN cũng không làm tròn nhiệm vụ với địa vị là cơ quan “do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công” khi không thể “với tới” kiểm soát một lượng tài sản, vốn lớn của Nhà nước đang đặt tại các doanh nghiệp vì lý do rào cản pháp lý.
1.4. Năng lực hiện tại của kiểm toán viên nhà nước
Trong Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020, số lượng kiểm toán viên nhà nước sẽ là trên 3.000 người. Thực tế qua hơn 20 năm hoạt động, năng lực, trình độ của kiểm toán viên nhà nước ngày càng được nâng cao, do vậy hiệu quả công việc cũng được nâng cao tương ứng. Hệ thống cơ sở pháp lý (quy trình, chuẩn mực, mẫu biểu hồ sơ kiểm toán ...) đã cơ bản hoàn thiện, đầy đủ. Ngoài ra, Luật KTNN cũng cho phép KTNN được thuê các doanh nghiệp kiểm toán độc lập thực hiện một số nghiệp vụ của mình. Như vậy, KTNN hoàn toàn đủ năng lực để thực hiện kiểm toán các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
2. Những kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Kiểm toán nhà nước trong điều kiện thực hiện Luật Doanh nghiệp
Từ những phân tích trên, chúng tôi kiến nghị một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung Luật KTNN như sau:
- Sửa đổi các quy định về đối tượng, nội dung, đơn vị được kiểm toán trong Luật KTNN, nhất là đối với lĩnh vực doanh nghiệp. Theo đó, phải xác lập nguyên tắc - ở đâu có quản lý sử dụng vốn của Nhà nước, ở đó cần có sự kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, vốn nhà nước. Công tác kiểm tra, giám sát phải do cơ quan KTNN thực hiện. KTNN có trách nhiệm xây dựng chương trình và kế hoạch kiểm toán và tự chịu trách nhiệm về quyết định lựa chọn các đơn vị được kiểm toán thuộc lĩnh vực doanh nghiệp. Khi xác định nội dung kiểm toán cần đưa rõ lý do, nguyên nhân lựa chọn đơn vị được kiểm toán và nội dung kiểm toán, nêu rõ mục đích, yêu cầu và biện pháp thực hiện kiểm toán trình Tổng KTNN quyết định. Trường hợp phải quy định quy mô vốn đầu tư của Nhà nước để khoanh vùng phạm vi kiểm toán, Luật nên quy định cả mức tỷ lệ tương đối (ví dụ như khoảng từ 30% vốn trở lên) và quy định cả số tuyệt đối vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp (ví dụ 50 hoặc 100 tỷ trở lên) nhằm tăng cường hiệu quả kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông qua hoạt động KTNN.
Thực hiện giải pháp này sẽ giúp KTNN phát huy được tác dụng của việc tăng cường loại hình kiểm toán hoạt động, tăng cường phạm vi và đối tượng kiểm toán, nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán quản lý và sử dụng vốn tại các doanh nghiệp. Giải pháp này cũng giúp cho hoạt động kiểm tra, giám sát của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước ... có hiệu quả hơn khi sử dụng kết quả kiểm toán cho mục đích quản lý, điều hành của mình. Mặt khác, xác định đối tượng kiểm toán là vốn và tài sản nhà nước thay vì tiêu chí tỷ lệ vốn và tài sản nhà nước sẽ giúp cho việc kiểm soát hiệu quả quản lý, sử dụng vốn tại các doanh nghiệp đầy đủ và chặt chẽ hơn; rộng khắp và hiệu lực, hiệu quả hơn, đặc biệt sử dụng tiền vốn, NSNN vào các chương trình mục tiêu quốc gia có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế.
- Để đảm bảo tôn trọng quyền của các doanh nghiệp cũng như quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác, Luật KTNN có thể xem xét quy định hình thức kiểm toán thích hợp đối với những doanh nghiệp có phần vốn đầu tư của Nhà nước dưới 51% vốn điều lệ. Nội dung kiểm toán đối với các DNNN nắm giữ dưới 51% vốn điều lệ sẽ được thực hiện cụ thể như sau:
+ Kiểm toán đánh giá trách nhiệm của chủ sở hữu và người đại diện vốn nhà nước xem việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước có tuân thủ pháp luật, có hiệu quả hay không; người đại diện vốn có thể tham gia vào các vị trí trực tiếp tại tập đoàn, tổng công ty hoặc là người của Tổng công ty Quản lý và đầu tư vốn nhà nước (SCIC).
+ Kiểm toán việc thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN của các doanh nghiệp và các nghĩa vụ có liên quan đến quản lý, sử dụng NSNN mà doanh nghiệp được giao, được tham gia hoặc đã ký kết cung cấp các dịch vụ công có liên quan đến sử dụng NSNN; việc sử dụng nguồn NSNN cho các công trình, chương trình mục tiêu quốc gia.
+ Kiểm toán việc tuân thủ pháp luật liên quan đến chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước mà các đơn vị này có tham gia, gắn với hoạt động quản lý, sử dụng ngân sách, tiền, tài sản của Nhà nước.
+ Các chuyên đề cụ thể khác theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, ví dụ: hoạt động quản lý, sử dụng, khai thác, kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ trong quản lý tài nguyên khoáng sản, đất đai./.

* ThS. Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI
** ThS. Kiểm toán Nhà nước
 
[1] Điều 51 Hiến pháp năm 2013
[2] Điều 118 Hiến pháp năm 2013.
[3] Điều 13 Luật KTNN.
[4] Điều 5 Luật KTNN.
[5] Khoản 11 Điều 63 Luật KTNN.
[6] Theo quy định của Luật KTNN, KTNN chỉ được thực hiện kiểm toán các đơn vị này khi có yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.
[7] http://congnghedaukhi.com/cndk-News-640.html.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9(289), tháng 5/2015)


Thống kê truy cập

32954035

Tổng truy cập