Hoạt động của Quốc hội với việc bảo vệ Hiến pháp năm 2013

01/09/2015

TS. LƯƠNG MINH TUÂN

Phó Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.

ThS. ĐỖ NGỌC TÚ

Trưởng phòng, Trung tâm Thông tin khoa học, Viện Nghiên cứu Lập pháp.

1. Hoạt động lập hiến của Quốc hội với việc bảo vệ Hiến pháp
Quốc hội Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển vẻ vang gần 70 năm qua. Thực hiện chức năng lập hiến của mình, Quốc hội đã lần lượt ban hành năm bản Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Hiến pháp năm 2013). Cùng với hoạt động lập hiến của Quốc hội, các quy định của pháp luật về bảo vệ Hiến pháp ở nước ta đã từng bước được hình thành và phát triển.
Vấn đề bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ và bảo đảm các giá trị cơ bản, nội dung của các quy phạm trong Hiến pháp được Quốc hội quan tâm, đề cập đến ngay từ Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục khẳng định trong các Hiến pháp sau này. Những nội dung cơ bản được quy định trong Hiến pháp nhằm bảo vệ Hiến pháp năm 2013 có thể được nêu ra như sau:
Thứ nhất, để Hiến pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành, Hiến pháp năm 1946[1] đã quy định trách nhiệm củamỗi công dân Việt Nam phải tôn trọng Hiến pháp[2]. Quy định này được tiếp tục kế thừa và phát triển qua bốn bản Hiến pháp sau này của nước ta. Hiến pháp năm 2013 khẳng định việc tuân theo Hiến pháp là nghĩa vụ của công dân[3]người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp Việt Nam[4]; “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[5].
Thứ hai, để bảo vệ Hiến pháp trước những hành vi vi phạm Hiến pháp thì việc xác định các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp, giải quyết những trường hợp vi phạm Hiến pháp là rất cần thiết. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 không chỉ đòi hỏi sự tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp như các Hiến pháp trước đây của nước ta mà còn đòi hỏi hành động tích cực hơn từ phía Nhà nước[6], các cơ quan nhà nước và Nhân dân về việc bảo vệ Hiến pháp. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”[7]. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 còn khẳng định “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”[8]. Điều này cho thấy, vấn đề bảo vệ Hiến pháp và trước hết là vai trò, trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong việc bảo vệ Hiến pháp đã được đề cao và ghi nhận ngay trong Hiến pháp năm 2013.
Bên cạnh quy định chung về bảo vệ Hiến pháp nêu trên, kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959 về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội “Giám sát việc thi hành Hiến pháp”[9], Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 cũng như Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh hơn vai trò của Quốc hội về vấn đề bảo vệ Hiến pháp: “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp...”[10].
Tiếp đó, giống như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể thẩm quyền của Quốc hội là: “Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) trái với Hiến pháp...”[11].
Ngoài Quốc hội, giống như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định thẩm quyền của UBTVQH “Giám sát việc thi hành Hiến pháp...”[12] và đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC trái với Hiến pháp... và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất[13]. Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội cũng được Hiến pháp năm 2013 giao thực hiện quyền giám sát trong lĩnh vực phụ trách do luật định[14].
Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn quy định giao cho một số cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện các hoạt động nhằm góp phần bảo vệ Hiến pháp như: Chính phủ tổ chức thi hành Hiến pháp[15]; Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân (UBND), Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp và đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp[16]; chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp tại địa phương[17]; HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp ở địa phương[18]; UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp ở địa phương[19]; v.v..
Thứ ba,các bản Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 đều khẳng định Hiến pháp là luật cơ bản (của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam), có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp[20]. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp. Đồng thời, quy định này còn là cơ sở pháp lý cho việc bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành những văn bản pháp luật khác trái với Hiến pháp.
Thứ tư, giống như Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[21]. Nhà nước dân chủ, pháp quyền XHCN này là một trong những mục tiêu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam, đã được bổ sung và ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 từ năm 2001[22].
Về Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nội dung quy định phân công cho Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp[23]; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp[24]; Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp[25]; và có sự “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[26]. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Điểm đáng lưu ý ở đây là: Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, bảo vệ và đồng thời, chính các nguyên tắc, nội dung cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN lại là các yếu tố bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành.
Thứ năm, do tầm quan trọng của Hiến pháp đối với Nhà nước và toàn xã hội, Quốc hội đã đặt ra các yêu cầu chặt chẽ đối với việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và được thể hiện trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 quy định: “Việc sửa đổi Hiến pháp phải do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu”; “Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điểm thay đổi”; “Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết[27]. Nhìn chung, quy định này của Hiến pháp năm 1946 đã được kế thừa và phát triển qua bốn Hiến pháp sau này và được thể hiện chặt chẽ trong Hiến pháp năm 2013 như sau: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành[28]; “Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định theo đề nghị của UBTVQH”[29]; “Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp”[30]; “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[31]. Đây vừa là những nội dung quan trọng của quy trình làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và vừa là những đòi hỏi, yêu cầu rất cao về làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp so với làm luật, sửa đổi luật ở nước ta. Việc quy định những nội dung này trong Hiến pháp cũng góp phần vào việc bảo vệ Hiến pháp năm 2013, mặc dù phạm vi thẩm quyền của Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp theo Hiến pháp năm 2013 là hầu như[32] không bị giới hạn.
Thứ sáu, ngoài các quy định nêu trên và khác với các Hiến pháp trước đây của nước ta, Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”[33]. Điều đó có nghĩa là Hiến pháp năm 2013 đã giao cho Quốc hội nhiệm vụ, quyền hạn ban hành luật để quy định về cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
Như vậy, có thể nói, với việc thực hiện chức năng lập hiến của mình, Quốc hội đã có những đóng góp rất quan trọng vào việc bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam, cụ thể là Quốc hội đã thiết lập các quy phạm Hiến pháp về bảo vệ Hiến pháp, làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và hệ thống pháp luật về bảo vệ Hiến pháp nói riêng.
2. Hoạt động lập pháp của Quốc hội với việc bảo vệ Hiến pháp
Trong gần 70 năm qua, Quốc hội, UBTVQH đã ban hành được trên 370 văn bản luật, trên 220 văn bản pháp lệnh và nhiều nghị quyết để cụ thể hoá Hiến pháp[34]. Trong đó, có nhiều văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến vấn đề bảo vệ Hiến pháp như: các luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; v.v..
Với việc ban hành các văn bản pháp luật nêu trên, Quốc hội đã cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về bảo vệ Hiến pháp và tạo ra một hệ thống các quy định khá toàn diện về hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở nước ta[35], tập trung vào những vấn đề chính như: giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật; giám sát tính hợp hiến trong việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật; v.v..
Trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc bảo đảm tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật ở nước ta được tiến hành ở tất cả các khâu từ việc soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua và do nhiều cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện như: Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp, v.v..
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực ký kết, gia nhập điều ước quốc tế, Quốc hội với việc ban hành Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế đã quy định việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cũng phải “Phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”[36]. Đồng thời, Luật này đã quy định thẩm quyền của Quốc hội, UBTVQH: “Xem xét điều ước quốc tế đang có hiệu lực do Chủ tịch nước, Chính phủ quyết định ký, gia nhập có dấu hiệu trái với Hiến pháp”[37]; Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về việc sửa đổi, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế có dấu hiệu trái với Hiến pháp[38]; một số cơ quan nhà nước khác[39] cũng được giao trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến trong việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế như Chính phủ, Chủ tịch nước, v.v..
Để cụ thể hoá chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, của các cơ quan của Quốc hội, của các đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Luật này có nhiều quy định liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành giám sát việc thi hành Hiến pháp. Điều 10 của Luật này quy định về việc xem xét, văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Đặc biệt, sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành đến nay, Quốc hội đã ban hành nhiều luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung nhiều luật khác cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 cũng như nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, trong đó có nhiều văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến vấn đề bảo vệ Hiến pháp như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014[40], Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014[41], Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014[42], Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; v.v.. Bên cạnh đó, nhiều văn bản luật khác như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND; v.v.. đang được nghiên cứu sửa đổi hoặc ban hành mới.
Nhìn chung, có thể nói, với việc thực hiện chức năng lập pháp của mình, Quốc hội đã có những đóng góp to lớn cho hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam, từng bước thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm để Hiến pháp nước ta được bảo vệ, tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành trên thực tế; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp.  
3. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với việc bảo vệ Hiến pháp
Bên cạnh chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được giao nhiệm vụ thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp. Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thi hành Hiến pháp (tính hợp hiến trong hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động giám sát, kiểm tra việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật)[43] ngày càng được coi trọng.
Về hoạt động giám sát trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, tính hợp hiến đã trở thành tiêu chí quan trọng hàng đầu phải xem xét khi tiến hành thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh và các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khác.
Trong lĩnh vực thi hành văn bản quy phạm pháp luật những năm qua, nhất là sau khi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội được ban hành năm 2003, hoạt động giám sát của Quốc hội được “tiến hành thường xuyên, có nền nếp, trọng tâm, trọng điểm, phản ánh được những vấn đề nóng bỏng, bức xúc, được nhân dân quan tâm”[44]. Công tác giám sát của Quốc hội đã có những đổi mới như tiến hành nghe các báo cáo hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Trung ương; cử các đoàn đi kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương. Quốc hội đã tập trung giám sát việc thi hành Hiến pháp, pháp luật[45]. Hoạt động giám sát tại các kỳ họp của Quốc hội đã được đổi mới với các nội dung giám sát ngày càng phong phú và được tiến hành công khai, dân chủ và mang lại những kết quả thiết thực. Quốc hội đã ban hành nghị quyết về chương trình giám sát hàng năm. Đáng lưu ý là Quốc hội cũng đã nghe các báo cáo giám sát chuyên đề do UBTVQH tiến hành về các vấn đề gây bức xúc như chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư, xây dựng cơ bản, v.v.. Đặc biệt, Quốc hội khoá XI tại kỳ họp thứ 8 lần đầu tiên đã tiến hành nghe, thảo luận báo cáo về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang Bộ, TANDTC, VKSNDTC từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI đến tháng 9/2005, trong đó có nội dung bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật[46]. Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết về kết quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan này.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, Quốc hội tiếp tục thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp trong lĩnh vực xây dựng pháp luật và lĩnh vực thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao đối với một số chuyên đề như chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo, giai đoạn 2005-2012 và chuyên đề về việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Các chuyên đề này được tổ chức giám sát công phu, cách thức tiến hành có nhiều cải tiến, đổi mới, bám sát thực tế, kiến nghị cụ thể, có nghị quyết sau giám sát, tạo sự chuyển biến thiết thực trong đời sống kinh tế - xã hội và gắn với công tác xây dựng pháp luật[47].
Bên cạnh đó, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội cũng được đánh giá là thiết thực, hiệu quả, luôn nhận được sự quan tâm của đông đảo nhân dân cả nước; các nội dung chất vấn là những vấn đề bức xúc được đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm; các phiên họp chất vấn đã được phát thanh, truyền hình trực tiếp; không khí chất vấn thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, xây dựng, tăng tính đối thoại; “việc ban hành nghị quyết sau chất vấn và yêu cầu báo cáo thường xuyên việc thực hiện tại các kỳ họp đã bước đầu tạo cơ chế ràng buộc trách nhiệm cao hơn trong việc thực hiện các cam kết của người trả lời chất vấn, tác động nhất định đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, nâng cao hơn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trước nhân dân”[48].
Nhìn chung, có thể nói, với việc thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp trong hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động giám sát, kiểm tra việc thi hành pháp luật, Quốc hội đã và đang có những hoạt động tích cực góp phần nhất định vào việc bảo đảm để Hiến pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh thi hành.
4. Một số hạn chế, bất cập và kiến nghị
Với hoạt động lập hiến và lập pháp của mình, Quốc hội đã và đang từng bước thiết lập một khung pháp lý về bảo vệ Hiến pháp ở nước ta[49]. Mặc dù Đảng, Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan đã có nhiều nỗ lực để bảo đảm thi hành Hiến pháp và cũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập[50] chính sau đây:
Thứ nhất, mặc dù có nhiều ưu điểm hơn so với Hiến pháp năm 1992, nhưng nhiều quy định của Hiến pháp năm 2013 vẫn chưa thể có hiệu lực áp dụng trực tiếp, đặc biệt là trong các trường hợp mà quy phạm của Hiến pháp không rõ ràng, khó xác định được những nội dung nào được Hiến pháp bảo vệ. Ví dụ như quy định của Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” tại Điều 34; “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành …” tại Điều 42[51]; “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” tại Điều 41; v.v.. Hơn nữa, mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã có những bước tiến “đột phá” trong các quy định về quyền con người, quyền công dân, nhưng Hiến pháp năm 2013 lại chưa có quy định cho phép chủ thể của quyền cơ bản hiến định có quyền khởi kiện yêu cầu phán quyết hành vi vi hiến trong trường hợp quyền cơ bản hiến định bị vi phạm. Điều đó làm cho các quyền cơ bản hiến định không thể có hiệu lực trực tiếp.
Vì các lý do chính nêu trên nên các cơ quan áp dụng pháp luật nhìn chung vẫn không thể viện dẫn quy định của Hiến pháp để giải quyết một vụ việc cụ thể. Quốc hội, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ cũng rất khó có thể tiến hành bãi bỏ hay đình chỉ văn bản quy phạm pháp luật nào vì lý do văn bản pháp luật đó trái với Hiến pháp. Người dân khi khiếu nai, tố cáo cũng không thể viện dẫn một điều khoản cụ thể của Hiến pháp để chứng minh quyền của mình được quy định trong Hiến pháp bị xâm hại, vì không rõ phạm vi quyền công dân của mình được Hiến pháp bảo vệ đến đâu.
Thứ hai, như đã trình bày ở trên, việc bảo vệ Hiến pháp ở nước ta hiện nay vẫn được giao cho nhiều cơ quan nhà nước khác nhau đảm trách. Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp vừa là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp. Theo đó, Quốc hội vừa làm luật và vừa giám sát, quyết định về việc liệu một đạo luật do Quốc hội ban hành có phù hợp với Hiến pháp hay không, và còn có quyền bãi bỏ các văn bản do các chủ thể khác ban hành trái với Hiến pháp[52] (Quyền tài phán hiến pháp). Bên cạnh đó, Quốc hội còn có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ Hiến pháp trong hoạt động xét xử của Toà án (quyền tư pháp). Như vậy, mặc dù Tòa án nhân dân được giao thực hiện quyền tư pháp và Quốc hội được giao thực hiện quyền lập pháp, nhưng vẫn còn có sự lẫn lộn giữa quyền lập pháp và quyền tài phán (quyền tư pháp) trong hoạt động của Quốc hội. Trong khi đó, Quốc hội lại gồm các đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân; số lượng đại biểu Quốc hội là các chuyên gia pháp luật không nhiều, đa số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm; Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Cơ cấu tổ chức của Quốc hội như vậy, không giống cơ cấu tổ chức của cơ quan tài phán (cơ quan xét xử gồm các thẩm phán chuyên nghiệp), là không phù hợp với việc thực hiện các hoạt động tài phán này. Khác với nước ta, các hoạt động tài phán này ở các nhà nước pháp quyền khác trên thế giới được giao cho một cơ quan chuyên trách có chức năng giám sát và bảo vệ hiến pháp thực hiện.
Thứ ba, Quốc hội là cơ quan quan trọng cấu thành bộ máy nhà nước. Vì vậy, Quốc hội phải tự mình tuân thủ Hiến pháp. Mặc dù vậy, để tránh sự tùy tiện, lạm dụng quyền lực, Hiến pháp năm 2013 quy định có sự “kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[53]. Tuy nhiên, nước ta hiện vẫn thiếu một cơ chế kiểm soát quyền lực từ phía cơ quan tư pháp[54] đối với hoạt động của Quốc hội (cơ quan thực hiện quyền lập pháp) nhằm bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành.
Thứ tư, UBTVQH được giao thẩm quyền “giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”[55]. Tuy nhiên, việc “giải thích Hiến pháp” của UBTVQH thực chất là hoạt động lập pháp, không phải là hoạt động tư pháp. Khác với nước ta, việc giải thích Hiến pháp trong các trường hợp tranh chấp liên quan đến Hiến pháp ở các nước trên thế giới thường do cơ quan chuyên trách bảo vệ Hiến pháp thực hiện (Tòa án hiến pháp).
Thứ năm, Hiến pháp có thể bị vi phạm do hành động của chủ thể hoặc không hành động của chủ thể có nghĩa vụ hành động (thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn) được Hiến pháp điều chỉnh gây ra. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 chỉ mới điều chỉnh, xử lý hành động (văn bản) của một số chủ thể nhất định trái Hiến pháp, mà chưa điều chỉnh, xử lý loại hình vi phạm Hiến pháp do không hành động của chủ thể có nghĩa vụ hành động. Điều này có thể ít nhiều ảnh hưởng không tốt đến việc bảo vệ Hiến pháp và qua đó làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành Hiến pháp. Ví dụ như Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”, nhưng nếu Quốc hội với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lập pháp không ban hành luật quy định về các quyền này thì các quyền này cũng không thể thi hành được trên thực tế.
Thứ sáu, khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Tuy nhiên, do thời gian từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay chưa nhiều nên các quy định này của Hiến pháp năm 2013, nhất là quy định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” nhìn chung chưa được luật quy định cụ thể.
Qua trình bày, phân tích ở trên, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị bước đầu nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và đồng thời, phù hợp với nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” như sau:
1)  Trong khuôn khổ Hiến pháp năm 2013, cần tiếp tục cụ thể hóa quy định tại khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013 “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Đặc biệt, Quốc hội cần ban hành luật để quy định cụ thể “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp” ở nước ta. Theo chúng tôi thì cơ chế bảo vệ Hiến pháp năm 2013 có thể được quy định trong nhiều đạo luật do Quốc hội ban hành và Quốc hội cũng có thể ban hành “Luật về Cơ chế bảo vệ Hiến pháp”.
2)   Về lâu dài khi có điều kiện sửa đổi Hiến pháp năm 2013 thì có thể xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo ba hướng: a) Bảo vệ Hiến pháp bởi cơ quan tư pháp (có thể là Tòa án hiến pháp); b) Bảo vệ Hiến pháp bởi pháp luật hình sự; c) Bảo vệ Hiến pháp bởi các thiết chế, công cụ pháp luật hành chính phù hợp[56].
Việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp của nước ta hiện đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quốc hội./.
          
 
[1] Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập dân tộc, của thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân;là mốc son đánh dấu bước phát triển đầu tiên về thể chế dân chủ, pháp quyền Việt Nam.
[2] Điều thứ 4 Hiến pháp năm 1946.
[3] Điều 46 Hiến pháp năm 2013.
[4] Điều 48 Hiến pháp năm 2013.
[5] Khoản 3 Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
[6] Điều 3 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”.
[7] Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[8] Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[9] Điểm 3, Điều 50 Hiến pháp năm 1959.
[10] Điều 83 Hiến pháp năm 1980; Điều 83 Hiến pháp năm 1992; khoản 2 Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
[11] Khoản 9, Điều 84 Hiến pháp năm 1992; khoản 10 Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
[12] Điểm 5, Điều 91 Hiến pháp năm 1992; khoản 3 Điều 74 Hiến pháp năm 2013.
[13] Điểm 5, Điều 91 Hiến pháp năm 1992.
[14] Khoản 4 Điều 75 và khoản 2 Điều 76 Hiến pháp năm 2013.
[15] Khoản 1 Điều 96 Hiến pháp năm 2013.
[16] Khoản 4 Điều 98 Hiến pháp năm 2013.
[17] Khoản 1 Điều 112 Hiến pháp năm 2013.
[18] Khoản 2 Điều 113 Hiến pháp năm 2013.
[19] Khoản 2 Điều 114 Hiến pháp năm 2013.
[20] Điều 146 Hiến pháp năm 1980; Điều 146 Hiến pháp năm 1992; khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[21] Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
[22] Điều 2 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001.
[23] Điều 69 Hiến pháp năm 2013.
[24] Điều 94 Hiến pháp năm 2013.
[25] Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
[26] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
[27] Điều 70 Hiến pháp năm 1946.
[28] Khoản 1 Điều 120 Hiến pháp năm 2013.
[29] Khoản 2 Điều 120 Hiến pháp năm 2013.
[30] Khoản 3 Điều 120 Hiến pháp năm 2013.
[31] Khoản 4 Điều 120 Hiến pháp năm 2013.
[32] Mặc dù theo Hiến pháp năm 2013 thì việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định, nhưng nếu tổ chức trưng cầu ý dân (ví dụ như đưa ra toàn dân phúc quyết về dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua) thì kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết định đối với vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân (Hiến pháp). Trong trường hợp này, phạm vi thẩm quyền của Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp bị giới hạn.
[33] Đoạn 2 khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[35] Xem Bài phát biểu khai mạc của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu tại Hội thảo khoa học về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam tại Tp. Vinh, từ ngày 22-24/3/2005.
[36] Điểm 2 Điều 3 Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế.
[37] Điều 102 Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế.
[38] Điều 103 Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế.
[39] Xem Chương 8 của Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện điều ước quốc tế.
[40]Theo quy định tại khoản 6 Điều 70 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 thì Ủy ban Pháp luật của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn “bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật”. Điều 80 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 quy định về trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong việc bảo vệ Hiến pháp.
[41] Khoản 7 Điều 2 Luật Tổ chức TAND quy định “Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp,…”.
[42] Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức VKSND quy định “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp …”.
[43] Xem bài viết của TS. Nguyễn Văn Thuận, Thực trạng bảo đảm tính hợp hiến và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật của các văn bản quy phạm pháp luật, tại Hội thảo khoa học về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam tại Tp. Vinh, từ ngày 22-24/3/2005.
[44] Xem bài viết của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng Tăng cường vai trò giám sát tối cao của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, trên Tạp chí Cộng sản, số tháng 2-2013. 
[45] Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học, Văn phòng Quốc hội, 60 năm Quốc hội Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2005, tr. 76.
[46] Xem Báo cáo ý kiến của UBTVQH số 401/UBTVQH11 ngày 6/10/2005 về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, TANDTC, VKSNDTC, tr. 6-7.
[47] Xem Báo cáo số 788/BC-UBTVQH13 ngày 21/11/2014 của UBTVQH về kết quả hoạt động giám sát năm 2014 và phương hướng hoạt động giám sát năm 2015 của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, tr. 2-3.
[48] Xem Báo cáo số 788/BC-UBTVQH13 ngày 21/11/2014 của UBTVQH, Tlđd, tr. 3.
[49] Theo đánh giá của GS,TS. Lê Minh Tâm thì cơ chế bảo hiến ở nước ta còn có các nhược điểm chính sau: 1) Cơ sở pháp lý còn chưa đầy đủ; 2) cơ cấu tổ chức còn chưa rõ ràng, phân tán, còn thiếu những yếu tố thiết yếu và việc xác định chức năng, nhiệm vụ còn chưa phù hợp; 3) nội dung của các hoạt động bảo hiến còn hẹp, chưa toàn diện; 4) trình tự, thủ tục, phương thức hoạt động bảo hiến còn chưa rõ ràng, đầy đủ và cụ thể. Xem bài viết của GS,TS. Lê Minh Tâm, “Mấy vấn đề chung về bảo hiến và cơ chế bảo hiến”, tại Hội thảo khoa học về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam tại Tp. Vinh, từ ngày 22-24/3/2005.
[50] Xem bài viết của GS,TS. Đào Trí Úc, “Bước đầu tìm hiểu vấn đề tài phán hiến pháp (constitutional review) ở Việt Nam”, tại Hội thảo khoa học về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam tại Tp. Vinh, từ ngày 22-24/3/2005.
[51] Xem TS. Lương Minh Tuân, Quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền được sống trong môi trường trong lành trong Hiến pháp năm 2013 - Khả năng thực hiện và kiến nghị, Tạp chí NCLP số 11 (291), tr. 25.
[52] Khoản 9, Điều 84 Hiến pháp năm 1992; khoản 10 Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
[53] Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
[54] Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và xây dựng Hiến pháp năm 2013, ý tưởng về việc thành lập Hội đồng bảo hiến được đề xuất nhưng đã bị Quốc hội bác bỏ.
[55] Điều 91 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001; khoản 2 Điều 74 Hiến pháp năm 2013.
[56] Cộng hòa liên bang Đức là một trong những nước có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này. Xem Zippelius/Würtenberger, Deutsches Staatsrecht, 32. Aufl. München 2008, tr. 594. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 18(298)-tháng 9/2015)


Thống kê truy cập

33946914

Tổng truy cập