Nâng cao nhận thức là một trong những đảm bảo quan trọng cho hiệu lực, hiệu quả của Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá

01/10/2015

TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khi đã nghiện thuốc lá, cơ thể con người sẽ trở nên thụ động và phụ thuộc vào các chất hóa học trong thuốc lá. Và khi ngừng sử dụng thuốc lá, có thể sẽ dẫn đến buồn chán, thất vọng, thậm chí có thể trầm cảm và căng thẳng kéo dài. Do đó, bỏ thuốc lá là việc không đơn giản, cần phải có quyết tâm cao, được hỗ trợ từ nhiều phía. Điều này cũng đồng nghĩa với công tác phòng, chống tác hại (PCTH) của thuốc lá sẽ còn rất nhiều khó khăn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực không ngừng của mỗi quốc gia, cộng đồng, xã hội trên tất cả các phương diện từ pháp luật, kinh tế cho đến nâng cao nhận thức của người dân. Ở Việt Nam, tác hại của thuốc lá ngày càng được nhận thức rõ hơn, công tác PCTH của thuốc lá cũng ngày càng được coi trọng. 
Untitled_182.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Pháp luật về phòng, chống tác hại của thuốc lá ở Việt Nam
Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ban hành hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật các loại liên quan đến PCTH của thuốc lá. Các văn bản như Chỉ thị số 368/TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 22/6/1995 về Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết số 12/2000/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 14/8/2000  về Chính sách quốc gia PCTH của thuốc lá giai đoạn 2000-2010; Nghị định số 176/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 14/11/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế; Quyết định số 229/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25/01/2013 phê duyệt “Chiến lược quốc gia PCTH thuốc lá đến năm 2020”, đặc biệt là Luật PCTH của thuốc lá được ban hành ngày 18/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2013 với 5 chương, 35 điều đã tạo thành một hệ thống pháp luật khá đầy đủ về PCTH của thuốc lá. Hệ thống pháp luật này ngày càng được hoàn thiện, đồng thời thể hiện độ tương thích khá cao so với Công ước Khung về Kiểm soát thuốc lá (Công ước FCTC) mà Việt Nam đã tham gia[1].
Điều đó thể hiện những bước tiến đáng ghi nhận trong công tác lập pháp của Việt Nam, thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước về tác hại của thuốc lá cũng như yêu cầu và tầm quan trọng của việc PCTH của thuốc lá trong cộng đồng. Điển hình có thể kể đến các quy định cơ bản sau:
Trước hết, quy định quyền của công dân "được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá" đã chính thức được ghi nhận tại Điều 7 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012. Quy định này là sự thể chế hóa quyền "được sống trong môi trường trong lành" tại Điều 43 Hiến pháp hiện hành, đồng thời chính là việc nội luật hóa các cam kết trong các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: "Các quốc gia thành viên thừa nhận quyền của mọi người được hưởng một tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể được" (khoản 1 Điều 12 Công ước về các Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966). Bên cạnh đó, Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 còn có nhiều quy định cụ thể đề cập đến trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong quản lý, thông tin, giáo dục, truyền thông, hỗ trợ cai nghiện thuốc lá, phòng chống thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả, xử lý vi phạm pháp luật về PCTH của thuốc lá. Hai nội dung này sẽ là hai trục cơ bản định hướng quá trình ban hành văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết, cũng như tổ chức thực hiện các quy định PCTH của thuốc lá trong thực tiễn.
Về chính sách thuế và giá đối với thuốc lá. Nếu như ở Nghị quyết số 12 của Chính phủ về Chính sách quốc gia PCTH của thuốc lá giai đoạn 2000-2010 quy định "chính sách thuế đối với các sản phẩm thuốc lá luôn luôn cần ở mức thu cao" thì ở Luật PCTH của thuốc lá năm 2012, chính sách thuế được xác định phải "phù hợp nhằm để giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá" (khoản 2 Điều 4). Trên tinh thần đó, mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá điếu, xì gà và các chế phẩm khác từ cây thuốc lá hiện tại được quy định là 65%. Mức thuế đánh vào mặt hàng này "từ ngày 01/01/2016 đến hết 31/12/2018 sẽ là 70%" và "từ ngày 01/01/2019 sẽ là 75%" (Điều 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2014). Với mức thuế và lộ trình tăng thuế hiện tại, giá bán lẻ thuốc lá sản xuất trong nước của Việt Nam vẫn chưa vào mức cao bởi khi tăng thuế thêm 20%, các yếu tố khác không đổi, giá bán lẻ cũng sẽ chỉ tăng khoảng 10%[2]. Điều này cho thấy, Nhà nước ta đã có sự cân nhắc, tính toán về tương quan giữa việc sử dụng công cụ thuế để kiềm chế tác hại của thuốc lá với việc sẽ ứng phó với sự gia tăng của thuốc lá nhập lậu, do xu hướng người tiêu dùng chuyển sang sử dụng thuốc lá lậu có giá rẻ hơn giá thuốc lá sản xuất trong nước như bài học đã thấy ở không ít quốc gia[3].
Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 không quy định phải in hàm lượng tar và nicotine trên nhãn bao thuốc lá là hoàn toàn phù hợp với khuyến cáo của Công ước FCTC, tránh được việc người sử dụng hiểu là nên chọn những loại có hàm lượng tar và nicotine thấp, sẽ giảm tác hại sức khỏe cho người sử dụng hơn khi sử dụng loại có hàm lượng tar và nicotine cao. Bên cạnh đó, lộ trình giảm lượng tar xuống còn ≤ 12mg/điếu, nicotine ≤ 1mg/điếu vào giai đoạn 2010-2015 và giai đoạn 2015-2020 của Bộ Công thương quy định trong Quyết định số 1988/QĐ-BCT ngày 1/4/2013 cũng sẽ là một trong những biện pháp cần thiết nhằm hạn chế tác hại của thuốc lá ở Việt Nam
Những quy định trong Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 như phải in cảnh báo sức khỏe bằng chữ và hình ảnh với diện chiếm ít nhất 50% mỗi mặt chính trước và sau trên bao, tút, hộp thuốc lá, đồng thời trao cho Chính phủ quyền quy định cụ thể mức tăng diện tích cảnh báo sức khỏe phù hợp với từng thời kỳ (Điều 15); quy định số lượng điếu thuốc lá đóng gói trong mỗi bao không được ít hơn 20 điếu (trừ thuốc lá xì gà và thuốc được sản xuất để xuất khẩu); quy định về hợp tác quốc tế trong PCTH của thuốc lá (Điều 8); quy định cấm quảng cáo, khuyến mại thuốc lá, tiếp thị thuốc lá trực tiếp tới người tiêu dùng, cấm người chưa đủ 18 tuổi sử dụng, mua, bán thuốc lá; quy định việc cấm bán, cung cấp thuốc lá cho người chưa đủ 18 tuổi (Điều 9); quy định địa điểm cấm hút thuốc lá hoàn toàn; địa điểm cấm hút thuốc lá trong nhà nhưng được phép có nơi dành riêng cho người hút thuốc lá (Điều 11); ... cho thấy, Việt Nam đã thực sự vì lợi ích sức khỏe của cộng đồng trong quá trình hiện thực hóa các khuyến cáo và cam kết quốc tế trong Công ước FCTC, chứ không phải là sự tham gia một cách hình thức.
Về việc thành lập Quỹ PCTH của thuốc lá. Quỹ quốc gia về PCTH của thuốc lá chính thức được ghi nhận trong Luật PCTH của thuốc lá năm 2012. Các quy định về địa vị pháp lý của Quỹ là một điều kiện đảm bảo quan trọng về mặt tài chính của công tác PCTH của thuốc lá. Trước đây, kinh phí cho công tác này chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn tài trợ quốc tế (khoảng 90%, chỉ có 10 % từ kinh phí hỗ trợ của Chính phủ)[4] nên khá bị động, khó tiến hành đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả không cao. Với quy định mới của Luật PCTH của thuốc lá năm 2012, nguồn kinh phí của Quỹ được hình thành chủ yếu từ "khoản đóng góp bắt buộc của cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc lá được tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt, theo lộ trình: 1% từ ngày 1/5/2013; 1,5% từ ngày 1/5/2016; 2% từ ngày 1/5/2019. Khoản đóng góp bắt buộc được khai, nộp cùng với thuế tiêu thụ đặc biệt do cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc lá tự khai, tự tính, tự nộp vào tài khoản của Quỹ"; ngoài ra còn "từ các nguồn tài trợ, đóng góp tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; cùng nguồn thu hợp pháp khác" (khoản 1 Điều 30 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012). Các quy định này không chỉ phát huy được sức mạnh xã hội hóa, tập hợp được kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau trong cộng đồng mà quan trọng hơn, còn bắt buộc được cơ sở sản xuất, nhập khẩu thuốc lá và đặc biệt là bản thân những người trực tiếp sử dụng thuốc lá có trách nhiệm vật chất về hành vi gây hại cho sức khỏe cộng đồng từ việc sản xuất và sử dụng thuốc lá của họ. "Giúp họ nhận thức mạnh mẽ hơn ảnh hưởng của việc hút thuốc lá đối với bản thân và xã hội, từ đó có thể giảm dần hoặc không sử dụng thuốc lá..."[5].
Pháp luật PCTH của thuốc lá cũng đã đề cập và đề cao trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan, tổ chức, địa phương trong PCTH của thuốc lá; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, người quản lý địa điểm cấm hút thuốc lá. Trong công tác thông tin, giáo dục, truyền thông, trách nhiệm của Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được quy định cụ thể, trên cơ sở lĩnh vực hoạt động liên quan, chức năng nhiệm vụ hoặc phạm vi ảnh hưởng của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.
Như vậy, có thể thấy, về cơ bản, pháp luật, đặc biệt là Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 phù hợp với yêu cầu PCTH của thuốc lá ở Việt Nam, tương thích với Công ước FCTC và xu hướng chung của quốc tế.
2. Những khó khăn trong việc thực hiện pháp luật phòng, chống tác hại của thuốc lá
Nếu so sánh mục tiêu giảm tỷ lệ người sử dụng thuốc lá mà Nhà nước đề ra trong Chính sách quốc gia PCTH của thuốc lá giai đoạn 2000-2010 (tại Nghị quyết 12 năm 2000 của Chính phủ): "Giảm tỷ lệ nam giới hút thuốc lá từ 50% xuống còn 20%, giảm tỷ lệ nữ hút thuốc lá xuống dưới 2%; giảm tỷ lệ thanh thiếu niên (từ 15 - 24 tuổi) hút thuốc lá từ 26% xuống 7%" với cùng mục tiêu này ở Chiến lược quốc gia PCTH của thuốc lá đến năm 2020 (theo Quyết định số 229/QĐ-TTg, ngày 25/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ): nam giới từ 47,4% năm 2011 xuống 39% năm 2020; nữ giới xuống dưới 1,4%; thanh thiếu niên (từ 15 đến 24 tuổi) từ 26% năm 2011 xuống 18% năm 2020, sẽ thấy được thành tựu chúng ta đạt được trong hơn một thập kỷ PCTH của thuốc lá khiêm tốn như thế nào.
Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 cũng đã được triển khai thi hành gần 03 năm. Các hoạt động PCTH của thuốc lá được khởi động lại và tiếp tục được triển khai với nhiều hình thức và cấp độ. Đa số các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị, các địa phương, các địa điểm công cộng đều đã có những động thái nhất định để PCTH của thuốc lá, từ việc triển khai các mô hình không khói thuốc, chấn chỉnh nề nếp hoạt động của cán bộ, công nhân viên trong cơ quan đơn vị, hiện thực hóa các quy định về cấm hút thuốc lá nơi công cộng, kiểm soát việc quảng cáo khuyến mại thuốc lá, xây dựng, thành lập các cơ sở, trung tâm cai nghiện, thực hiện các hoạt động thông tin, truyền thông về thuốc lá cho đến các hội thảo chuyên sâu về các biện pháp PCTH của thuốc lá. Tuy nhiên, việc triển khai thi hành Luật vẫn còn nhiều hạn chế. Theo một kết quả đánh giá việc triển khai quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng của Hội Y tế công cộng Việt Nam tại 5 tỉnh/thành phố là Hà Nội, Thái Bình, Đồng Tháp, Hà Tĩnh và Khánh Hòa được tiến hành trong tháng 4/2013 thì: việc sử dụng thuốc lá ở nơi công sở có giảm, nhưng "tại bến xe, nhà ga mức độ vi phạm vẫn còn cao (92%), việc vi phạm tại cơ sở y tế là 74,7% và trường học là 63,8%", tỷ lệ nam giới sử dụng thuốc lá có tỉnh vẫn ở mức gần 45%, tình trạng hút thuốc tại phòng làm việc vẫn còn rất phổ biến với khoảng 43,4% ngay cả khi có biển báo cấm hút thuốc và khoảng 32,4% vi phạm do không thấy có người xử phạt. Những quy định như cấm bán, cung cấp thuốc lá cho người dưới 18 tuổi, cấm bán thuốc lá ở những địa điểm như phía ngoài cổng nhà trẻ, mẫu giáo, trường tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học, bệnh viện... hầu như không được thực hiện.
Hiện nay, công tác thực hiện pháp luật về PCTH của thuốc lá còn gặp rất nhiều khó khăn, đó là khó khăn từ kinh phí tổ chức thực hiện, kinh nghiệm, nguồn nhân lực thực hiện, đến những hạn chế trong nhận thức về tác hại của thuốc lá của người dân, đặc biệt là hạn chế trong nhận thức về pháp luật PCTH của thuốc lá.
Thứ nhất, người dân gần như không quan tâm nhiều hoặc không nhận thức được hết các khía cạnh của quyền được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá. Quyền "được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá" được quy định cụ thể tại Điều 7 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012. Đây là quy định mang tính bao quát nhất, chi phối và là cơ sở của tất cả các quy định khác của pháp luật liên quan đến PCTH của thuốc lá. Quy định này có nguồn gốc vững chắc từ một quyền căn bản của con người đã được pháp luật nhân quyền quốc tế và hầu hết các quốc gia thừa nhận, đó là quyền được sống trong môi trường trong lành. Ở góc độ quan hệ pháp luật, thì quyền được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá thuộc loại quan hệ pháp luật chung - quan hệ giữa một bên là những công dân và một bên là Nhà nước, quan hệ này phát sinh từ thời điểm quy định của pháp luật về quyền nêu trên của công dân có hiệu lực. Theo đó, nội hàm quyền được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước, sẽ gồm việc có được những khả năng sau: i) công dân có quyền lựa chọn sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá hay không; ii) công dân có quyền yêu cầu Nhà nước thực hiện các hành động để không phải sống, làm việc trong môi trường có khói thuốc lá; iii) công dân có quyền yêu cầu Nhà nước phải chịu trách nhiệm nếu vi phạm nghĩa vụ đảm bảo cho công dân được sống, làm việc trong một môi trường không có khói thuốc lá. Tuy nhiên, trong thực tế, người dân gần như không quan tâm nhiều hoặc không nhận thức được hết các khía cạnh của quyền được sống, làm việc trong môi trường không có khói thuốc lá. Biểu hiện ở việc rất ít trường hợp người dân hiện thực hóa khả năng hưởng quyền này của họ trong thực tế bằng các hành vi chủ động, tích cực. Mà thường chỉ biểu hiện ở việc đưa ra những nhận xét, những phản hồi khi được lấy ý kiến trong các cuộc khảo sát, thăm dò liên quan đến PCTH của thuốc lá.
Thứ hai, nhận thức về trách nhiệm của các chủ thể mang quyền lực nhà nước trong PCTH của thuốc lá vẫn còn hạn chế. Đối với những nhóm chủ thể này thì trách nhiệm luôn phải là phạm trù được tiếp cận ở hai góc độ: i) trách nhiệm là trọng trách, nghĩa vụ phải thực hiện những công việc, hành vi mang tính tích cực mà Nhà nước giao - đây vừa là trách nhiệm công vụ vừa là quyền mà các chủ thể khác không có; ii) trách nhiệm là sự gánh chịu những hậu quả bất lợi mà Nhà nước dự kiến áp dụng nếu các chủ thể trên vi phạm pháp luật, trong đó có vi phạm trách nhiệm công vụ - đây chính là trách nhiệm pháp lý. Hai khía cạnh trách nhiệm này luôn phải đi cùng với nhau, như một sự tất yếu của quyền lực nhà nước - loại quyền lực đặc thù vốn được hình thành từ các cam kết trách nhiệm của những người đại diện quyền lực với nhân dân.
Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 đã luật hóa cụ thể trách nhiệm công vụ của nhiều chủ thể trong từng lĩnh vực công tác PCTH của thuốc lá. Riêng khoản 1 Điều 32 Luật đề cập đến trách nhiệm pháp lý của người có thẩm quyền trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính "nếu dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng quy định thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật". Điều đó không có nghĩa là, các chủ thể của trách nhiệm công vụ còn lại không được Luật đề cập đến không mang trách nhiệm pháp lý. Tuy vậy, một thực tế dễ nhận thấy, trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định của Luật, trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền hầu như chỉ được tiếp cận ở góc độ trách nhiệm công vụ - được xác định trên cơ sở thế mạnh về chức năng, lĩnh vực, phạm vi hoạt động vốn có của các chủ thể trong tương quan gần với các lĩnh vực cụ thể của công tác PCTH của thuốc lá. Điển hình như: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước chung; Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước, tổ chức cung cấp thông tin khoa học về tác hại của thuốc lá; Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chỉ đạo các cơ quan thông tin truyền thông thực hiện hoạt động thông tin, truyền thông; Bộ Công thương có trách nhiệm phối hợp tổ chức công tác phòng chống, thông tin, tuyên truyền về phòng chống thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả; Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về PCTH của thuốc lá trong phạm vi địa phương... Và, trong quá trình thực hiện, các chủ thể có trách nhiệm nêu trên lại được quyền tự chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết, lộ trình, hình thức thực hiện trách nhiệm - quyền lực đó của mình.
Do vậy, việc thiếu vắng cơ chế chịu trách nhiệm pháp lý của các chủ thể có thẩm quyền trong công tác PCTH của thuốc lá khi họ vi phạm hoặc thực hiện không đạt trách nhiệm công vụ thời gian qua là điều không khó để lý giải. Đây cũng chính là lời giải cho tình trạng tại sao nhiều quy định của Luật PCTH của thuốc lá năm 2012 được ban hành khá phù hợp, rất cần thiết lại bị nhận định là khó khả thi (như các quy định cấm tại Điều 9, các quy định về bán thuốc lá tại Điều 25), hay tình trạng nhiều chủ thể từ bộ, ngành, đến Ủy ban nhân dân các cấp, người đứng đầu, người quản lý địa điểm cấm hút thuốc lá cho rằng, công tác PCTH của thuốc lá, việc thực hiện quy định cấm hút thuốc tại nơi công cộng gặp khó khăn là vì lực lượng chức năng thi hành nhiệm vụ xử lý vi phạm quá thiếu hoặc không phù hợp.
Nếu như trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền được nhân dân, Nhà nước, bản thân các chủ thể mang quyền nhận thức đầy đủ, thì có lẽ, các vướng mắc như vẫn nhắc đến rất nhiều thời gian qua sẽ được nhìn nhận theo một hướng khác. Đó là việc, mỗi chủ thể, trong một chuỗi trách nhiệm của công tác PCTH của thuốc lá đã làm hết trọng trách được giao của mình hay chưa, và nếu chưa làm được, không làm đúng thì sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý như thế nào để chuỗi trách nhiệm chung đó được tiếp tục vận hành tốt nhất. Ví như, người đứng đầu, người quản lý mỗi địa điểm cấm hút thuốc lá hoàn toàn nếu làm hết trọng trách của mình bao gồm: "buộc người vi phạm chấm dứt việc hút thuốc lá tại địa điểm cấm hút thuốc lá; hoặc yêu cầu người vi phạm quy định cấm hút thuốc lá ra khỏi cơ sở của mình; hoặc từ chối tiếp hoặc cung cấp dịch vụ cho người vi phạm quy định cấm hút thuốc lá nếu người đó tiếp tục vi phạm sau khi đã được nhắc nhở" (Điều 14 Luật PCTH của thuốc lá năm 2012) thì có lẽ không cần phải có thẩm quyền hoặc sự xuất hiện của chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm đối với những trường hợp này. Tương tự như vậy, nếu tất cả các chủ thể mang trách nhiệm, quyền lực nhà nước còn lại thực hiện được hết trọng trách của mình, hiệu quả thực hiện pháp luật PCTH của thuốc lá ở Việt Nam chắc chắn sẽ không còn khiêm tốn như hiện nay, và sẽ bỏ được tình trạng, các chủ thể mang quyền luôn chỉ nhìn thấy những hạn chế từ phía các chủ thể mang quyền khác trong quá trình đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật PCTH của thuốc lá.
3. Tiếp tục nâng cao nhận thức về phòng, chống tác hại của thuốc lá
Trong lĩnh vực PCTH của thuốc lá, nâng cao nhận thức vừa là giải pháp, lại vừa là mục đích. Nâng cao nhận thức cần được tính đến trong một tổng thể, hướng tới các đối tượng, từ những người dân không sử dụng thuốc lá, những người trực tiếp sử dụng thuốc lá cho đến những người có thẩm quyền trong công tác PCTH của thuốc lá. Mỗi nhóm đối tượng, cần cách thức và mức độ tác động khác nhau, cụ thể:
Một là, các chủ thể mang quyền lực nhà nước trong công tác PCTH của thuốc lá luôn cần nhận thức và thực hiện trách nhiệm công vụ trong sự ràng buộc với trách nhiệm pháp lý cá nhân. Ở góc độ quyền con người được sống trong môi trường không có khói thuốc lá, trách nhiệm của Nhà nước chủ yếu là trách nhiệm chủ động. Trách nhiệm này sẽ bao gồm hàng loạt các hành động nhằm bảo vệ, bảo đảm cho người dân không phải sống trong một môi trường có khói thuốc lá, từ việc quản lý, tuyên truyền phổ biến, phòng chống thuốc lá nhập lậu, tổ chức cai nghiện thuốc lá đến xử lý các vi phạm. Với đặc tính chủ động đó, việc Nhà nước lạm quyền hoặc không thực hiện hết các nghĩa vụ là điều có thể xảy ra. Trách nhiệm pháp lý khi đó sẽ là một đảm bảo quan trọng đối với trách nhiệm công vụ của chủ thể có thẩm quyền.
Cơ sở quan trọng nhất để ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể có thẩm quyền chính là pháp luật và một cơ chế giám sát trách nhiệm công vụ hữu hiệu từ phía nhân dân và các tổ chức xã hội dân sự. Việc bổ sung rõ ràng, đồng bộ trách nhiệm pháp lý cho tất cả các chủ thể có trách nhiệm trong công tác PCTH của thuốc lá là cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà nhận thức về trách nhiệm nhà nước chưa thực sự được toàn diện. Lịch sử lập pháp Việt Nam đã chứng minh tính hữu dụng và giá trị của cách thức này khi trong 722 điều của Bộ luật hình triều Lê có đến 300 điều được các nhà lập pháp thời kỳ này quy định rõ trách nhiệm pháp lý nếu vi phạm trách nhiệm công vụ.
Ngoài ra, cần vận hành một cơ chế giám sát chặt chẽ từ phía nhân dân và các tổ chức xã hội dân sự đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước trong công tác PCTH của thuốc lá. Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự ở góc độ giám sát quyền lực nhà nước sẽ mang lại hiệu quả bền vững cùng với việc các tổ chức này trực tiếp tham gia thực hiện các hoạt động PCTH của thuốc lá.
Hai là, các cá nhân không sử dụng thuốc lá cần phải nhận thức được quyền và có hành xử phù hợp để góp phần bảo vệ quyền được sống trong môi trường không có khói thuốc của mình và của những người xung quanh. Với nhóm chủ thể này, nhận thức được quyền và mối tương quan giữa quyền của họ với trách nhiệm của Nhà nước là yêu cầu quan trọng. Nhận thức này là cơ sở để họ có những phản ứng hoặc có hành vi nhất định nhằm bảo vệ bản thân và những người xung quanh không phải hút thuốc lá thụ động, cùng với việc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các nghĩa vụ cần thiết để đáp ứng quyền của họ.
Để người dân có được nhận thức này, công tác tuyên truyền, phổ biến, thông tin về tác hại của thuốc lá, về các ảnh hưởng của thuốc lá đối với bản thân họ, với những người trực tiếp sử dụng thuốc lá là rất cần thiết, qua đó giúp người không sử dụng thuốc lá không có thái độ thờ ơ vì quan niệm rằng, thuốc lá chỉ có hại với những ai trực tiếp sử dụng. Việc thông tin cần đa dạng, chi tiết, thường xuyên để nhân dân dễ nhận biết, dễ liên hệ với tình trạng sức khỏe bản thân trước những tác hại cụ thể của hút thuốc lá thụ động.
Các quy định về nghĩa vụ của người sử dụng thuốc lá, về các địa điểm cấm hút thuốc lá, về việc quảng cáo, bán thuốc lá... cũng cần phải được tuyên truyền thường xuyên, để người dân nắm được, hiểu được, từ đó định hình được các quyền lợi cụ thể của mình trong các mối quan hệ xã hội liên quan đến người sử dụng, mua bán, quảng cáo thuốc lá, PCTH của thuốc lá.
Cùng với đó, cũng cần phải phổ biến các quy định của pháp luật liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong từng lĩnh vực của công tác PCTH của thuốc lá để người dân có thể nhận biết, giám sát hoặc kiến nghị khi cần thiết.
Ba là, các cá nhân sử dụng thuốc lá phải nhận thức được: quyền sử dụng thuốc lá của mình là một quyền bị giới hạn bởi các tiêu chuẩn về sức khỏe của những người xung quanh và cộng đồng xã hội. Sử dụng thuốc lá là hành vi không bị pháp luật cấm, nhưng bị pháp luật hạn chế nhằm bảo vệ sức khỏe của những người không sử dụng thuốc lá và cộng đồng xã hội. Thực tiễn chứng minh, người sử dụng thuốc lá có được nhận thức này đa phần từ các quy định của pháp luật, từ hành động PCTH của thuốc lá của các chủ thể mang quyền lực nhà nước. Do vậy, nâng cao nhận thức cho người sử dụng thuốc lá để có thể bảo vệ được quyền lợi của những người xung quanh là bắt buộc và là trọng trách to lớn của Nhà nước. Các quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sử dụng thuốc lá cần được phổ biến công khai, thường xuyên, để có thể trở thành thói quen mỗi khi họ sử dụng thuốc lá.
Nhà nước cũng cần tập trung tuyên truyền, giáo dục ý thức cho nhân dân nói chung và trực tiếp những người sử dụng thuốc lá các thông tin về tác hại của thuốc lá đối với người sử dụng và đối với những người thân xung quanh họ. Các thông tin về tác hại và số lượng người chết, loại bệnh tật phát sinh do hút thuốc lá cần cập nhật, đa dạng, có minh chứng khoa học và thực tế rõ ràng. Biểu hiện những tác động, ảnh hưởng của thuốc lá ở từng giai đoạn đối với sức khỏe của người sử dụng cũng cần được thông tin rõ bằng lời và bằng hình ảnh để làm gia tăng khả năng giáo dục và mức độ cảnh báo, sao cho người sử dụng có thể nhận biết được, lường định được mình đang ở giai đoạn, trạng thái nào của nguy cơ. Thiết nghĩ, điều đó sẽ có tác động không nhỏ đến quyết định có tiếp tục hút hay không hút thuốc lá.
Một giải pháp chung cũng không thể không nhắc đến, đó là cần tăng cường công tác giáo dục gia đình, nâng cao ý thức của chính các thành viên gia đình đối với việc PCTH của thuốc lá. Các trẻ em vị thành niên cần phải được định hướng, cần phải có các tấm gương từ chính các thành viên khác trong gia đình về ý thức phòng tránh tác hại của thuốc lá cho chính bản thân mình, cho người thân và cho cả cộng đồng xã hội./.

 


 
[1] Ngày 11/11/2004, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Khung về Kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y tế thế giới, Công ước đã có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 17/3/2005. Nguồn: http://vinacosh.gov.vn/vi/cong-uoc-khung/gioi-thieu/ (truy cập ngày 17/9/2015).
[2] Chương trình PCTH thuốc lá quốc gia (VINACOSH): Hỏi đáp về PCTH của thuốc lá tại Việt Nam, tr. 23.
[3] Tại Malaixia, năm 2010, thuế tiêu thụ đặc biệt với thuốc lá tăng 182% so với năm 2004, thuốc lá hợp pháp trở nên quá đắt đỏ với người tiêu dùng, thuốc lá bất hợp pháp tăng từ 14,4% năm 2004 lên đến 34,5% trong năm 2012 với tỷ lệ sản phẩm bất hợp pháp cao nhất được ghi nhận là ở mức 37,5% trong năm 2009. Trong cùng thời gian (2004-2012), tổng khối lượng tiêu thụ thuốc lá hợp pháp cũng giảm gần 30%; Tại Ailen, sau khi tăng giá khoảng 20% trong khoảng 2006-2009 do thuế tiêu thụ đặc biệt tăng (22% tính trên đơn vị một nghìn điếu), thuốc lá lậu ở Ailen đã tăng đột biến lên 22,3% trong khi tỷ lệ hút thuốc không thay đổi; ở Đức, từ tháng 4 năm 2002 đến tháng 1 năm 2007, chính phủ Đức thực hiện một loạt vụ tăng mạnh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá. Điều này khiến mỗi gói thuốc lá tăng 52% giá trị danh nghĩa (40% trên giá trị điều chỉnh lạm phát thực tế. Điều này khuyến khích một số người tiêu dùng chuyển sang các nguồn bất hợp pháp và/hoặc hàng qua biên giới có giá rẻ hơn. Dữ liệu Dự án Ngôi sao của KPMG (2013) cho thấy khối lượng tiêu thụ sản phẩm đã đóng thuế ở nước ngoài tăng từ 7% năm 2002 lên gần 20% năm 2006. Việc chuyển sang các nguồn thuốc lá bất hợp pháp, rẻ hơn cho thấy tỷ lệ người hút thuốc chỉ sụt giảm chút ít (27,2% năm 2005 so với 27,4% năm 2003 và 28,3% năm 1999). (Tài liệu: Trung tâm Đầu tư & Thuế quan Quốc tế (ITIC), tháng 9 năm 2013, Báo cáo đặc biệt).
[4] Xem thêm Chương trình PCTH thuốc lá quốc gia (VINACOSH): Hỏi đáp về PCTH của thuốc lá tại Việt Nam, tr. 23.
[5] Xem thêm Vũ Đình Quyền, Luật PCTH của thuốc lá - cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20(300), tháng 10/2015)


Thống kê truy cập

33933384

Tổng truy cập