Quan điểm và giải pháp đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số

01/09/2015

TS. NGUYỄN LÂM THÀNH

Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.

1. Quan điểm, đường lối của Đảng ta trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số  
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng năm 1986 đã đem lại những thay đổi đáng kể trên nhiều mặt kinh tế - xã hội, trong đó phải kể đến sự phát triển của đường lối, chính sách, hệ thống luật pháp của Nhà nước nhằm khẳng định các giá trị về quyền con người, thực thi và bảo vệ các giá trị đó. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, dân chủ hóa đời sống xã hội gắn với xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; đặt con người vào vị trí trung tâm với vị trí, vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc phát triển là những nền tảng tư tưởng chủ đạo đem lại sự phát triển vượt bậc về nhận thức lý luận phát triển kinh tế - xã hội cũng như các giá trị về quyền con người ở nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) đã xác định tầm quan trọng của chính sách dân tộc, trong đó nhấn mạnh quyền bình đẳng chính trị của các dân tộc thiểu số (DTTS) là:“Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc”.
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị năm 1989 (khoá VI) về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi cũng chỉ rõ về nguyên tắc để thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc: “để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng giữa các dân tộc, một mặt, pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó; mặt khác, phải có chính sách và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân tộc; tôn trọng và phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác và góp phần phát triển nền văn hóa chung của cả nước, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”.
Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá IX đã đề ra nhiều giải pháp thực hiện chính sách dân tộc nhằm bảo đảm các quyền của đồng bào DTTS, đó là: “Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các DTTS trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất”.
Có thể thấy rằng, trải qua các giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương, nguyên tắc trong đường lối chính sách dân tộc, đó là xây dựng khối đoàn kết, bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc, phát triển toàn diện về kinh tế - chính trị - xã hội nhằm bảo đảm các quyền và tiếp cận các quyền của đồng bào DTTS trên mọi mặt của đời sống trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc gia và một số chính sách đặc thù đối với vùng đồng bào dân tộc.
2. Hiến pháp và pháp luật bảo đảm quyền con người cho mọi người, mọi công dân, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số  
 Hiến pháp năm 1992 ra đời trên cơ sở Cương lĩnh 1991, đã hội tụ nhiều yếu tố, vừa mang tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân, vừa mang hơi thở giá trị phát triển của nhân loại về quyền con người, quyền công dân, vừa mang yếu tố dân tộc thời đại. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên đã đề cập đến khái niệm quyền con người và khẳng định: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”[1]
Cùng với sự phát triển về “quyền con người”, các quyền con người liên quan đến từng nhóm đối tượng xã hội, thành phần xã hội cũng được đề cập như: quyền phụ nữ, quyền bình đẳng giới, quyền trẻ em, quyền của người khuyết tật, quyền được phát triển, quyền của các DTTS v.v.. là sự cụ thể hóa các khía cạnh và mức độ sâu sắc về quyền con người và đã được từng bước thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật.
Về quyền của các dân tộc, Hiến pháp năm 2013tiếp tục khẳng định: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Điều 5);Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước (Điều 23); Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34); Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào DTTS, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (Điều 58); Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề (Điều 61).
Những quyền cơ bản đó được thể hiện ở các nhóm quyền dân sự, chính trị, kinh tế và Nhà nước Việt Nam đã xây dựng hệ thống pháp luật với việc ban hành hàng loạt các văn bản luật, quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
- Về quyền dân sự, được quy định với những quyền cơ bản về: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất), quyền tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm[2], quyền được thông tin theo luật định, quyền về chỗ ở, quyền tự do cư trú, quyền bình đẳng của các tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng… được quy định trong Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Cư trú, Luật Hộ tịch, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp v.v..
- Về quyền chính trị, quy định về bình đẳng trong ứng cử, bầu cử, quyền tham chính, quyền tự do lập hội, hội họp, quyền bình đẳng trước pháp luật… được quy định trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương v.v..
- Về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, bao gồm: các quyền về lao động, việc làm, quyền tiếp cận giáo dục, chăm sóc y tế, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền tiếp cận và hưởng thụ văn hóa… quy định trong Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Giáo dục, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế…
Đồng bào DTTS là các công dân Việt Nam, được hưởng quyền của “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, được hưởng đầy đủ các quyền theo luật định. Bên cạnh đó, do những yếu tố đặc thù về trình độ phát triển và đặc điểm kinh tế - văn hóa, hệ thống pháp luật còn quy định thêm những điều khoản cụ thể hay chính sách có liên quan nhằm bảo đảm cơ chế thực thi để đồng bào DTTS có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các quyền này. Quy định về quyền của các DTTS thể hiện rõ quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với các DTTS, với việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam, đồng thời cũng là mục tiêu, động lực của công cuộc phát triển đất nước.
Xét dưới góc độ quyền con người và quyền của các DTTS, hệ thống pháp luật của nước ta đã có những bước phát triển và tiến bộ đáng kể trong quá trình hòa nhập vào sự phát triển chung các giá trị tiến bộ của nhân loại. Bên cạnh những quy định bảo đảm quyền con người nói chung còn có những điều luật quy định đặc thù và các chính sách cụ thể như chính sách về đất đai, giáo dục, y tế, vay vốn tạo việc làm, chính sách bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc rất ít người v.v.. nhằm bảo đảm quyền và thúc đẩy thực thi quyền cho các đối tượng đồng bào DTTS, phấn đấu cho mục tiêu chung là thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.  
3. Một số kết quả thực hiện việc bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua 
Trên cơ sở đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện của Chính phủ thông qua các quy định và chính sách cụ thể, trong thời gian qua,quyền của các DTTS đã được thực hiện tốt trên nhiều mặt.
 Về các quyền chung, đồng bào DTTS được đối xử bình đẳng trước pháp luật như mọi con người, công dân Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội mà không có sự phân biệt đối xử hay có trường hợp ngoại lệ. Nhất là các quyền về tự do cư trú, đi lại, quyền quốc tịch, quyền bảo đảm an toàn về tính mạng. Bên cạnh đó, nhiều quy định luật pháp và chính sách đặc thù của Nhà nước đã thúc đẩy đồng bào dân tộc tiếp cận các quyền cơ bản đó một cách thuận lợi và đầy đủ hơn nhằm thực hiện nguyên tắc “bình đẳng” do những điều kiện bất lợi về điều môi trường sống, chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khác biệt về văn hóa đưa lại. Nội dung này được thể hiện trên các mặt sau đây:
3.1. Về chính trị
Quyền tham gia bầu cử, ứng cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong những kỳ bầu cử vừa qua, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở vùng đồng bào dân tộc thường chiếm tỷ lệ rất cao, là minh chứng rõ nét cho việc thực hiện và bảo đảm quyền chính trị của công dân nói chung. Việc tham gia bộ máy nhà nước, tổ chức chính trị đại diện cho nhân dân cũng đạt thành tựu đáng kể, tăng cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu thành phần các cấp qua các nhiệm kỳ. Số lượng đại biểu Quốc hội người DTTS đã tăng theo các khóa: Khoá I (1946) chiếm 10,2%, Khóa XIII chiếm 15,6%, cao hơn tỷ lệ dân số DTTS. Về đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là người DTTS: Khoá XI (2002-2007): có 14% ở cấp tỉnh, thành phố; có 17% ở cấp huyện, có 19% ở cấp xã, phường; Khóa XIII (2011-2016): đạt tỉ lệ 18,0% cấp tỉnh; 20,10% ở cấp huyện; 22,46% ở cấp xã[3].
Đồng bào dân tộc với tư cách là người dân được tham gia vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua đại diện và cả trực tiếp theo những quy định cụ thể, rõ ràng, nhất là hành lang “Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Nhiều nội dung, điều khoản quy định trong các luật, nghị quyết, văn bản hướng dẫn chính sách và ngay cả Chương trình 135 đều quy định rất rõ yêu cầu tham gia của người dân vào trong hoạt động quản lý kinh tế - xã hội ở cơ sở trên nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”. Đây là kênh quan trọng để thúc đẩy quyền về chính trị và tham gia các hoạt động quản lý nhà nước đối với đồng bào DTTS.
3.2. Về kinh tế 
- Tiếp cận điều kiện cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng được xây dựng đáng kể đã cải thiện bộ mặt nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc. Hiện đã có 92% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã; 95% số xã có điện; 80% số xã có thủy lợi nhỏ; 65% số xã có công trình nước sinh hoạt v.v.. [4] là những cố gắng rất đáng kể của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ công của đồng bào DTTS.
 Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách giúp người dân bảo đảm và tiếp cận nguồn lực đất đai, rừng, cải thiện các điều kiện sống như: Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg về hỗ trợ hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn về nhà ở, đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt; Quyết định số 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn v.v.. Những chính sách này đã phần nào góp phần giải quyết tình trạng thiếu đất, ổn định đời sống đồng bào dân tộc ở các địa phương cho hàng trăm ngàn hộ, tập trung nhiều nhất là ở các huyện trọng điểm nghèo theo Nghị quyết 30a, góp phần giảm tỷ lệ nghèo và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Thực hiện Đề án 1956 về dạy nghề nông thôn, trong 3 năm (2010-2013) đã có 223.792 người lao động DTTS được học nghề(chiếm tỷ lệ 25,24% so với tổng số lao động được đào tạo)[5].
3.3. Về giáo dục, y tế, văn hóa  
- Bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục: Đây là mục tiêu cơ bản trong chính sách phát triển của Nhà nước. Hệ thống cơ sở vật chất đã được xây dựng tương đối đồng bộ ở tất cả các xã vùng dân tộc cùng hệ thống điểm trường ở thôn bản, hệ thống các trường dân tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi, cùng với chính sách hỗ trợ sinh hoạt phí cho học sinh nghèo đã giúp cho con em đồng bào dân tộc có cơ hội đến trường, tiếp cận nền giáo dục quốc gia. Đến 2012, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 10 tuổi trở lên trong đồng bào dân tộc là 83,8% - một con số rất đáng kể so với thời kỳ trước năm 1975. Một số dân tộc chỉ có tỷ lệ không biết đọc biết viết thấp như Tày: 5,1%, Mường: 5,5%. Tỷ lệ hoàn thành cấp tiểu học khu vực miền núi phía Bắc đạt 89,4%; Tây Nguyên 83,65 và Tây Nam Bộ 86,4%[6].
Ngôn ngữ DTTS cũng được chú ý. Năm học 2012 - 2013, cả nước có 21 tỉnh, thành phố tổ chức dạy tiếng DTTS tại 668 trường, 4.764 lớp và hơn 100.000 học sinh, chủ yếu cấp tiểu học đối với 7 thứ tiếng gồm: Mông, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, Chăm, Hoa, Khmer, ngoài ra có tiếng Pa li trong hệ thống các trường phật giáo Nam Bộ.
- Bảo đảm quyền tiếp cận y tế: Hệ thống y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển rộng khắp, kể cả ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS. Việc tăng đầu tư chung cho lĩnh vực y tế đã giúp cho việc xây mới, nâng cấp, sửa chữa cơ sở hạ tầng và đầu tư trang thiết bị y tế cho hầu hết các cơ sở y tế vùng đặc biệt khó khăn, với mạng luới 99% số xã có trạm y tế và 94% số thôn, bản có cán bộ y tế và hệ thống bệnh viện đa khoa tuyến huyện được xây dựng đồng bộ trên cả nước.
Đồng bào DTTS được khám chữa bệnh và hưởng chính sách bảo hiểm y tế toàn diện, được tiếp cận những thành quả của quá trình phát triển, có quyền sử dụng dịch vụ y tế tại tuyến y tế cơ sở cho người dân, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số.
- Về văn hóa: Các thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, câu lạc bộ, trung tâm sinh hoạt cộng đồng... ở vùng đồng bào DTTS được chỉ đạo tập trung xây dựng ở các làng, thôn, bản, buôn, phum, sóc... Hầu hết các xã vùng dân tộc, miền núi có nhà văn hóa hoặc bưu điện văn hóa; nhiều thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng. Đây là nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng với nhiều dạng thức phong phú. Nhiều lễ hội ở các vùng dân tộc được khôi phục, tổ chức nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các bản sắc văn hóa các dân tộc, kể cả các DTTS rất ít người. Đời sống văn hóa của đồng bào các DTTS được nâng lên rõ rệt, nhiều công trình văn hóa đặc sắc đã được vinh danh di sản văn hóa phi vật thể nhân loại như: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hát then của đồng bào Tày - Nùng ở Việt Bắc v.v..
4. Một số vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong điều kiện hiện nay
Đất nước ta hiện nay đã bước vào giai đoạn phát triển mới, tiềm lực quốc gia được tăng cường, vị thế chính trị ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Điều này đem lại sự thuận lợi đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh những thuận lợi đó, cũng có những tác động ảnh hưởng nhất định đến vùng đồng bào dân tộc.
- Đồng bào DTTS nước ta phần lớn sống ở vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển nên khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ cơ bản xã hội như giao thông, thông tin liên lạc, giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe còn hạn chế. Bên cạnh đó là các điều kiện về bảo đảm lương thực, nhu cầu mặc và chỗ ở đảm bảo an toàn vẫn còn là thách thức đối với một số vùng, nhóm dân cư do sinh sống ở các khu vực có môi trường tự nhiên không thuận lợi.
- Chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, lao động trong độ tuổi qua đào tạo thấp, chỉ đạt từ 5 - 20% (tùy dân tộc). Vẫn còn tình trạng một bộ phận dân cư mù chữ hoặc tái mù chữ, cộng với trình độ văn hóa thấp đã hạn chế khả năng tiếp cận và hưởng thụ các thành quả phát triển gắn với tiêu chí về các quyền cơ bản. Cùng với nó, trình độ năng lực hạn chế sẽ dẫn đến khả năng tự bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân của cá nhân được luật pháp thừa nhận cũng hạn chế do những phức tạp, phong phú của đời sống xã hội.
- Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo dưới tác động của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại, xâm thực văn hóa, xâm nhập và biến đổi tôn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều tổ chức quản lý làng, bản truyền thống gắn với các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ (hoặc phá bỏ do chính sách phát triển gần đây), luật tục bị tháo bỏ hoặc không được công nhận cùng với một số giá trị sở hữu truyền thống. Sức bảo vệ trước dòng chảy văn hóa của một số cộng đồng DTTS trở nên suy yếu, cần có những chính sách trợ lực để bảo vệ bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc.
- Chất lượng và số lượng hoạt động của bộ máy hành chính, các tổ chức cung cấp dịch vụ công, việc thực thi nhiệm vụ, thi hành pháp luật của bộ máy công chức, viên chức nhà nước cũng là vấn đề cần quan tâm trong việc đảm các quyền cơ bản của công dân, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS. Sự hiểu biết, trách nhiệm và lòng kiên trì là những phẩm chất cần thiết đối với những cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc và lĩnh vực dân tộc. 
Bối cảnh và tình hình chính trị, kinh tế - xã hội nói trên đã tác động không nhỏ đến chính sách dân tộc cũng như việc bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc, cả thuận lợi và khó khăn, cả thách thức và cơ hội. Trong đó, thuận lợi vẫn là nét cơ bản, nhất là sự phát triển không ngừng vững mạnh của đất nước, công cuộc đổi mới và dân chủ hóa đời sống xã hội. Đặc biệt Hiến pháp 2013 là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc thực hiện các quyền cơ bản con người, quyền công dân mà trong đó có đồng bào DTTS.
5. Một số giải pháp bảo đảm các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay 
 Đảng ta luôn xác định: “Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xoá bỏ tận gốc sự chênh lệnh về trình độ kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam XHCN”[7].
Đây là nguyên tắc cơ bản để thực hiện các quyền của DTTS trong một quốc gia nhiều dân tộc, khẳng định tính ưu việt của chế độ XHCN hướng tới xây dựng xã hội dân chủ, hạnh phức và văn minh, ở đó các giá trị quyền con người được đề cao.
Để bảo đảm các quyền của đồng bào DTTS hiện nay cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cơ sở pháp lý ngày càng đầy đủ hơn cho việc bảo vệ và thúc đẩy, phát triển các quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, yêu cầu tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Trong đó, tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa nói chung và quyền của nhóm đối tượng DTTS nói riêng.
- Việc bảo đảm các quyền cho đồng bào DTTS phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này. Không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật và quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; thực hiện trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng trước pháp luật của công dân.
- Việc bảo đảm các quyền của người dân phải được thể chế hóa bằng luật pháp, chính sách, được luật pháp tôn trọng, bảo vệ và có giá trị thực tiễn. Bảo đảm tính thống nhất giữa pháp luật chung với những quy định mang tính đặc thù. Việc thể chế hóa các nội dung quyền cụ thể căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước phù hợp trong từng giai đoạn theo chủ trương, nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
- Thực thi một cách đồng bộ và toàn diện các chương trình, chính sách phát triển hạ tầng, kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, cải thiện dịch vụ xã hội và bảo tồn các giá trị văn hóa ở vùng dân tộc nhằm bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân tộc là đặc biệt quan trọng. Cần có những chính sách đặc biệt; thực thi các quyền đó để tạo nên sự thay đổi toàn diện trong đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa của người dân một cách cơ bản theo các mục tiêu phát triển.
- Xây dựng chế độ trách nhiệm thực thi nhiệm vụ của cán bộ công chức, nhất là cán bộ công tác ở vùng DTTS, bảo đảm mỗi người có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm của mình trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm các quyền của công dân, quyền con người đối với đồng bào dân tộc là các đối tượng trình độ năng lực pháp lý hạn chế, dễ bị tổn thương và ít có khả năng tự bảo vệ.
- Xây dựng năng lực nội sinh là một ưu tiên để đồng bào dân tộc thực thi, hội nhập trong chính sách phát triển quốc gia, biết tự chọn lọc, tự bảo vệ các giá trị và quyền lợi cơ bản cá nhân cũng như cộng đồng trong khuôn khổ hệ thống pháp luật nói chung. Nhất là làm tốt công tác giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường nhận thức và phổ biến giáo dục pháp luật cho các tầng lớp đồng bào dân tộc.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong thực thi pháp luật, chú trọng đặc biệt công tác xét xử, công tác tư pháp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp để bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo theo đường lối, chủ trương lớn của Đảng ở tầm vĩ mô; tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp và sự giám sát của đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong thực thi pháp luật ở vùng dân tộc và chính sách dân tộc./.
  

 
 
[1] Điều 50 Hiến pháp năm 1992.
[2] Hiến pháp năm 2013.
[3] Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc 2014.
[4] Báo cáo đánh giá triển khai thực hiện chính sách vùng dân tộc và miền núi, Ủy ban Dân tộc, 2013.
[5] Báo cáo giám sát của Hội đồng Dân tộc 2013.
[6] Bao cáo đánh giá thực hiện mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ vùng dân tộc thiểu số, Ủy ban Dân tộc, 2015.
[7] Văn kiện Đại hội IV của Đảng.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17(297), tháng 9/2015)


Thống kê truy cập

33949045

Tổng truy cập