Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài nguyên nước

01/03/2015

HOÀNG VĂN BẢY

Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường

1. Những vấn đề chủ yếu vềtài nguyên nước của Việt Nam
Nếu chỉ xét riêng tổng lượng nước hàng năm của cả nước, có thể lầm tưởng rằng Việt Nam là quốc gia có tài nguyên nước (TNN) dồi dào. Tuy nhiên, xét theo đặc điểm phân bố lượng nước theo thời gian, không gian cùng với đặc điểm phân bố dân cư, phát triển kinh tế, mức độ khai thác, sử dụng nước... có thể thấy rằng, TNN của nước ta đang phải chịu rất nhiều sức ép, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia. Điều đó được thể hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, nguồn nước của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài. Gần 2/3 lượng nước của nước ta là từ nước ngoài chảy vào. Những năm qua, các nước ở thượng lưu đang tăng cường xây dựng các công trình thủy điện, chuyển nước và xây dựng nhiều công trình lấy nước, gây nguy cơ nguồn nước chảy về nước ta sẽ ngày càng suy giảm và Việt Nam sẽ khó chủ động được về nguồn nước, phụ thuộc nhiều vào các nước ở thượng lưu.
Theo số liệu phân tích từ ảnh viễn thám thì thượng nguồn hệ thống sông Hồng trên lãnh thổ Trung Quốc có khoảng 52 công trình thủy điện đã hoàn thành hoặc đang xây dựng. Riêng đối với thượng nguồn sông Đà, về cơ bản, đến nay Trung Quốc đã khai thác hết các bậc thang thuỷ điện lớn, đã vận hành 8 nhà máy, với tổng dung tích hồ chứa trên 2 tỷ m3, công suất lắp máy gần 17.000 MW.
Việc khai thác nước ở thượng nguồn của phía Trung Quốc đã gây ra các tác động đến việc khai thác nguồn nước của nước ta như: đã có hiện tượng suy giảm lượng nước từ Trung Quốc chảy vào nước ta, nhất là từ các năm từ 2007-2010; tạo ra lũ đột ngột, bất thường (biên độ dao động mực nước ngày từ 4m đến 10m), gây dao động mực nước giữa ban ngày và ban đêm rất lớn, có thời gian các hồ ngừng xả nước phát điện liên tục, kéo dài làm suy kiệt dòng chảy các sông.
Tương tự như vậy, trên thượng nguồn sông Mê Công, Trung Quốc đã có kế hoạch xây dựng 14 đập thuỷ điện với tổng công suất lắp đặt trên 22.000 MW. Trong đó có 2 công trình có khả năng điều tiết rất lớn với tổng dung tích khoảng 38 tỷ m3 (thuỷ điện Tiểu Loan công suất 4.200 MW, dung tích hồ chứa khoảng 15 tỷ m3; thủy điện Nọa Chất Độ công suất rất lớn, 5.500 MW, dung tích hồ chứa khoảng 23 tỷ m3). Phân tích sơ bộ ảnh viễn thám trên một phần lưu vực của sông Mê Công (thuộc Trung Quốc) cho thấy, đã có 75 công trình thủy điện đã hoặc đang xây dựng, trong đó có 6 đập trên dòng chính. Trên phần lưu vực thuộc các nước Lào, Thái Lan và Campuchia hiện đã có quy hoạch 11 công trình thuỷ điện trên dòng chính, tổng công suất khoảng 10.000-19.000 MW. Lào đã chính thức khởi công thủy điện Xayabury và đang chuẩn bị xây dựng thủy điện Donsahong.
Việc xây dựng, vận hành các công trình thủy điện trên thượng nguồn sông Mê Công được cảnh báo sẽ là mối nguy cơ lớn làm đảo lộn các hoạt động phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường ở vùng hạ lưu, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam do các vấn đề về biến đổi dòng chảy trong mùa lũ, suy giảm dòng chảy mùa kiệt, gia tăng xâm nhập mặn, suy giảm hàm lượng phù sa, suy giảm nguồn lợi thủy sản...
Thứ hai, nguồn nước phân bố không cân đối giữa các vùng, các lưu vực sông. Toàn bộ phần lãnh thổ từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến TP. Hồ Chí Minh, nơi có 80% dân số và trên 90% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ chỉ có gần 40% lượng nước của cả nước; 60% lượng nước còn lại là ở vùng ĐBSCL - nơi chỉ có 20% dân số và khoảng 10% hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Lưu vực sông Đồng Nai chỉ có 4,2% lượng nước, nhưng đang đóng góp khoảng 30% GDP của cả nước.
Thứ ba, TNN phân bố không đều theo thời gian trong năm và không đều giữa các năm. Lượng nước trong 3-5 tháng mùa lũ chiếm tới 70-80%, trong khi đó 7-9 tháng mùa kiệt chỉ có 20-30% lượng nước cả năm. Phân bố lượng nước giữa các năm cũng biến đổi rất lớn, trung bình cứ 100 năm thì có 5 năm lượng nước chỉ bằng khoảng 70-75% lượng nước trung bình nêu trên.
Thứ tư, nhu cầu nước gia tăng trong khi nguồn nước đang tiếp tục bị suy giảm, đặc biệt là trong mùa khô. Hiện nay, một số lưu vực sông đã bị khai thác quá mức, nhất là trong mùa khô, cạnh tranh, mâu thuẫn trong sử dụng nước ngày càng tăng. Theo tiêu chuẩn quốc tế, đã có 4 lưu vực sông đang bị khai thác ở mức căng thẳng trung bình (sử dụng 20-40% lượng nước) gồm sông Mã, sông Hương, các sông thuộc Ninh Thuận, Bình Thuận và Bà Rịa-Vũng Tàu (nhóm sông Đông Nam bộ). Nếu tính riêng trong mùa khô, thì đã có 10 lưu vực sông đang bị khai thác ở mức căng thẳng trung bình, 6 sông đã đến mức rất căng thẳng (sử dụng trên 40% lượng nước, gồm 4 sông: sông Mã, cụm sông Đông Nam bộ, sông Hương và Đồng Nai). Trong đó, cụm sông Đông Nam bộ và sông Mã đã khai thác khoảng 75% và 80% lượng nước mùa khô. Dự kiến đến năm 2020 tình trạng khan hiếm nước, thiếu nước, nhất là trong mùa khô sẽ còn tăng mạnh so với hiện nay và hầu hết các lưu vực sông của Việt Nam đều ở trong trạng thái căng thẳng về sử dụng nước, đặc biệt là trong thời kỳ mùa cạn.
Thứ năm, một số khu vực, nguồn nước dưới đất cũng bị khai thác quá mức. Mực nước dưới đất ở một số khu vực bị suy giảm liên tục và chưa có dấu hiệu hồi phục. Tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, đã hình thành 3 phễu hạ thấp mực nước lớn (tại Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định); năm 1995, diện tích hình phễu hạ thấp mực nước chỉ có 195 km2, đến nay đã tăng lên đến 2.900 km2, có một số nơi tốc độ hạ thấp tới 0,8m/năm. Tại vùng ĐBSCL, đã hình thành 2 phễu hạ thấp mực nước lớn (tại khu vực TP. Hồ Chí Minh và bán đảo Cà Mau); diện tích phễu hạ thấp mực nước tăng từ 6.900 km2 (1995) lên gần 15.000 km2 (hiện nay), cá biệt có điểm tốc độ hạ thấp đến trên 1m/năm. Một số khu vực, nước dưới có nguy cơ ô nhiễm arsen cao, nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (có 792 xã) và ĐBSCL (229 xã), vùng Bắc Trung Bộ (155 xã).
Thứ sáu, tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do nguồn nước bị ô nhiễm. Nguồn nước mặt ở hầu hết các khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng (như lưu vực sông Nhuệ - Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai-Sài Gòn). Nguyên nhân chủ yếu là do nước thải từ các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, các đô thị không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn xả ra môi trường, vào nguồn nước.
Thứ bảy, rừng đầu nguồn bị suy giảm, diện tích rừng không được cải thiện, chất lượng rừng kém làm giảm nguồn sinh thủylà một trong những nguyên nhân chính góp phần làm cho nguồn nước cạn kiệt, thiếu nước trong mùa khô và gia tăng lũ ống, lũ quét, sạt lở đất trong mùa mưa trong thời gian gần đây.
Thứ tám, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, xâm nhập mặn sẽ tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới TNN. Trong những năm qua các hiện tượng bất thường của khí hậu, thời tiết đã xảy ra liên tục. Mùa khô ngày càng kéo dài, hạn hán gây thiếu nước xảy ra trên diện rộng liên tục trong mùa khô các năm từ 2008 đến nay, không chỉ xảy ra ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên, miền núi cao phía Bắc mà ngay còn ở vùng ĐBSCL. Mùa mưa thì mưa, lũ tăng lên ở tất cả các vùng trong cả nước (dự báo đến năm 2020 tất cả các vùng đều tăng từ 2,3 - 5,4%); lượng nước mùa khô ở nhiều vùng (từ Bắc Trung Bộ đến ĐBSCL bị suy giảm (dự báo đến năm 2020 giảm từ 2,3% đến lớn nhất 16% - ở vùng Nam Trung Bộ, nơi đang thiếu nước nhất).
Mực nước biển dâng cao dẫn tới ngập lụt vùng ven biển; gia tăng tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông, đồng bằng ven biển; gây xói lở, sa bồi làm đảo lộn cân bằng tự nhiên và sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng ven bờ. Đồng thời, còn làm gia tăng ngập lụt vùng đồng bằng, hàng triệu ha vùng ven biển có thể bị chìm ngập, hàng trăm ha rừng ngập mặn có thể bị mất, các hệ sinh thái đất ngập nước ven bờ bị tác động sâu sắc. Các hệ sinh thái thuỷ sinh, nguồn lợi thuỷ sản và nghề cá, đời sống, sinh hoạt các công trình xây dựng của cư dân ven bờ cũng thay đổi theo chiều hướng xấu đi.
2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tài nguyên nước
Quản lý TNN ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã được cải thiện đáng kể về mặt pháp lý, cấu trúc thể chế và các cơ chế quản lý; qua đó đã góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Luật TNN đã được chính thức ban hành từ năm 1998 và các văn bản hướng dẫn Luật đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản về quản lý, điều hành, lưu trữ, khai thác và sử dụng TNN trên toàn quốc. Sự thay đổi về thể chế trong quản lý TNN đã khuyến khích được quá trình phi tập trung hóa, đẩy mạnh sự tham gia rộng rãi của các thành phần ngoài nhà nước trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước, cung cấp nước sinh hoạt và nước tưới tiêu.
Trong những năm qua, hệ thống văn bản pháp luật về TNN đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT) tập trung xây dựng, từng bước hoàn thiện, tạo lập hành lang pháp lý cơ bản cho công tác quản lý TNN từ trung ương đến địa phương. Để triển khai thi hành Luật TNN năm 1998, Bộ TN&MT đã xây dựng, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc Bộ ban hành theo thẩm quyền tổng số gần 35 văn bản pháp luật về TNN. Tuy nhiên, để bảo đảm tính đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý TNN trong trong tình hình mới, ngày 21/6/2012 Quốc hội đã thông qua Luật TNN số 17/2012/QH13 (sau đây gọi tắt là Luật TNN năm 2012). Theo đó, Luật TNN năm 2012 đã sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật TNN năm 1998 từ phạm vi điều chỉnh, các vấn đề chung đến quy hoạch, điều tra cơ bản, bảo vệ TNN,.... đến trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN từ trung ương đến cấp huyện, xã, đặc biệt là các vấn đề về quy hoạch, bảo vệ TNN, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và tài chính về TNN, thể hiện trên bảy nhóm vấn đề chính sau đây:
Một là, về những quy định chung. Luật TNN năm 2012 bổ sung quy định một số dự án liên quan đến khai thác nước, xả nước thải vào nguồn nước phải lấy ý kiến của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng và tổ chức, cá nhân liên quan nhằm đề cao trách nhiệm, minh bạch thông tin về những tác động tiêu cực có thể gây ra ngay từ khi chuẩn bị thực hiện dự án; quy định phân loại lưu vực sông, nguồn nước làm căn cứ phân công, phân cấp quản lý và bổ sung quy định về phổ biến, giáo dục pháp luật về TNN.
Hai là, về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch TNN. Luật TNN năm 2012 đã bổ sung quy định về quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản TNN, chiến lược TNN, quy hoạch TNN chung của cả nước, quy hoạch lưu vực sông, quy hoạch TNN của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đồng thời, Luật cũng đã bổ sung quy định trách nhiệm, thẩm quyền trong công tác điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch TNN; quy định điều kiện của đơn vị thực hiện điều tra cơ bản, tư vấn lập quy hoạch TNN.
Ba là, về bảo vệ TNN.Luật TNN năm 2012 đã có những quy định cụ thể về các biện pháp phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước và ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước; quy định giám sát TNN, các hoạt động khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước, bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy; quy định hành lang bảo vệ nguồn nước, các biện pháp bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông.
Bốn là, về khai thác, sử dụng TNN. Luật TNN năm 2012 đã bổ sung các quy định về sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; các quy định về quy hoạch, xây dựng và khai thác sử dụng nước của hồ chứa, điều hòa, phân phối TNN, các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất, khai thác, sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu các nguồn nước.
Năm là, về phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Luật TNN năm 2012 tập trung điều chỉnh việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do hoạt động khai thác, sử dụng TNN gây ra như phòng chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo, xâm nhập mặn, sụt, lún đất, sạt, lở bờ, bãi sông. Việc phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do thiên tai sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về đê điều, phòng, chống lụt, bão và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Sáu là, về tài chính về TNN. Luật TNN năm 2012 đã quy định việc thu tiền cấp quyền khai thác TNN đối với một số hoạt động khai thác nước. Quy định này nhằm coi nước là tài sản của Nhà nước, bảo đảm lợi ích của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu TNN, đồng thời nâng cao ý thức và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo đảm sự công bằng trong việc sử dụng tài sản của Nhà nước.
Bảy là, về trách nhiệm quản lý TNN. Luật TNN năm 2012 bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về TNN của Bộ TN&MT, các bộ, ngành và của chính quyền địa phương các cấp, thẩm quyền cấp phép về TNN; bổ sung quy định về việc điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN và phòng, chống tác hại do nước gây ra trên lưu vực sông nhằm bảo đảm tính hệ thống, thống nhất của TNN trên lưu vực sông và đề cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương liên quan trong việc giải quyết những vấn đề về TNN trong khuôn khổ lưu vực sông.
Trong gần hai năm qua, Bộ TN&MT đã khẩn trương chỉ đạo công tác rà soát, xây dựng nhiều văn bản mới theo tinh thần của Luật TNN năm 2012, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý TNN trong bối cảnh nguồn nước đang có nguy cơ suy thoái, cạn kiệt do tác động của biến đổi khí hậu và gia tăng khai thác, sử dụng nước, xả nước thải trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở cả trong nước và các quốc gia ở thượng nguồn các sông suối xuyên biên giới với nước ta. Đến nay, Bộ TN&MT đã xây dựng, trình Chính phủ bốn nghị định; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 14 quyết định, bao gồm 11 quy trình vận hành liên hồ chứa trên 11 lưu vực sông lớn, quan trọng nhằm khai thác sử dụng tổng hợp, hiệu quả hệ thống các hồ chứa lớn, đáp ứng yêu cầu, phòng, chống giảm lũ, cấp nước cho hạ du gắn với nhiệm vụ phát điện. Đồng thời, Bộ TN&MT cũng đã ban hành theo thẩm quyền 11 thông tư hướng dẫn để triển khai đồng bộ các quy định của Luật TNN năm 2012.
Trong bối cảnh 2/3 lượng nước của nước ta là từ nước ngoài chảy vào, các quốc gia thượng nguồn đang tăng cường hoạt động khai thác, sử dụng nước, nhằm tăng cường cơ chế giải quyết những vấn đề liên quan đến nguồn nước của Việt Nam theo chuẩn mực chung của quốc tế, đã được hầu hết các quốc gia thừa nhận, Bộ TN&MT đã tham mưu, trình Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về Luật Sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy. Với sự kiện này, Việt Nam đã là thành viên thứ 35 và chính thức đưa Công ước nêu trên có hiệu lực sau 17 năm được Liên hợp quốc thông qua (từ năm 1997).
3. Những vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài nguyên nước
3.1. Những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết
Để giải quyết đồng bộ các vấn đề TNN của Việt Nam nêu trên, Luật TNN năm 2012 đã được sửa đổi, bổ sung toàn diện, trong đó đã thể chế hóa nhiều cơ chế, chính sách mới nhằm khai thác, sử dụng tổng hợp, hiệu quả, quản lý, bảo vệ nguồn nước quốc gia được tốt hơn. Trong thời gian tới cần tập trung giải quyết có hiệu quả một số vấn đề sau:
Thứ nhất, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, nhất là đối với nguồn nước các sông liên quốc gia của Việt Nam. Đây là vấn đề hết sức hệ trọng, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, cơ chế từ hợp tác, thuyết phục, đấu tranh nhằm bảo đảm khai thác, sử dụng công bằng, hợp lý nguồn nước các sông liên quốc gia, hạn chế các tác động, rủi ro, đồng thời cũng phải có các phương án, giải pháp để chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh. Trong đó cần tập trung nghiên cứu cơ chế hợp tác hợp lý để bảo đảm việc xây dựng, vận hành các công trình thủy điện lớn ở các quốc gia thượng nguồn có thể điều tiết hài hòa dòng chảy cho hạ du cả trong mùa lũ và mùa cạn.
Thứ hai, giải quyết có hiệu quả các vấn đề về mất cân đối nguồn nước giữa các mùa, các vùng và các lưu vực sông, vấn đề suy kiệt dòng chảy, khai thác quá mức. Theo đó, cần phải tập trung điều tra cơ bản, quy hoạch, thông tin dữ liệu và dự báo, cảnh báo TNN đồng thời với việc xây dựng các cơ chế điều tiết, điều hòa, phân bổ nguồn nước, thực hiện các biện pháp khai thác sử dụng tổng hợp nguồn nước, nhất là việc vận hành điều tiết của các hồ chứa nước lớn, quan trọng.
Thứ ba, kiểm soát chặt chẽ các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là các hoạt động xả nước thải vào nguồn nước. Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp kiểm soát xả nước thải của các cơ sở ngay từ khâu chuẩn bị dự án, xây dựng đến giai đoạn vận hành, cần tập trung xây dựng cơ chế để giám sát chặt chẽ, liên tục chất lượng nước thải trước khi xả vào nguồn nước, nhất là các cơ sở xả nước thải với quy mô lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.
Thứ tư, thúc đẩy sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Cùng với việc triển khai thực hiện các cơ chế khuyến khích đối với các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, cần sớm triển khai việc thu tiền khai thác TNN đối với một số hoạt động khai thác, sử dụng nước có lợi thế như thủy điện, sử dụng nước phục vụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khai thác nước dưới đất.
Thứ năm, triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế điều phối, giám sát các hoạt động khai thác, bảo vệ TNN và phòng chống tác hại do nước gây ra trong khuôn khổ lưu vực sông.
3.2. Định hướng các nhiệm vụ trọng tâm trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý TNN
Một là, tập trung xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật TNN năm 2012 để triển khai đồng bộ, có hiệu quả các cơ chế, chính sách đã được thể chế hóa trong Luật. Trong đó, tập trung xây dựng để triển khai quy định về lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; ưu đãi, hỗ trợ đối với hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; thu tiền cấp quyền khai thác sử dụng TNN, đồng thời rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh các quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật về quy hoạch, điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN.
Hai là, xây dựng kế hoạch để triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách, quyền và nghĩa vụ của nước ta trong việc khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước liên quốc gia theo quy định của Công ước Liên hiệp quốc về Luật Sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông thủy.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý, sử dụng bảo vệ TNN phù hợp với yêu cầu và bối cảnh mới.Trong đó, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chế độ sở hữu đối với TNN; cơ chế tiếp cận, định giá, hạch toán tài nguyên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề chia sẻ lợi ích, đền bù, hỗ trợ giữa các bên liên quan trong khai thác, sử dụng TNN, bảo vệ TNN nhằm hài hòa về quyền lợi, nghĩa vụ giữa hoạt động khai thác với hoạt động bảo vệ, giữa thượng lưu với hạ lưu.
Bốn là, rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các cơ chế, chính sách về tạo nguồn thu ngân sách, chia sẻ lợi ích với các bên liên quan dựa trên nguyên tắc người hưởng lợi từ TNN phải trả tiền, người gây ô nhiễm phải khắc phục, bồi thường; về áp dụng các công cụ kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong khai thác, sử dụng TNN, đặc biệt là các chính sách thuế, phí, lệ phí; về khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột lợi ích trong khai thác, sử dụng TNN.
Năm là, xây dựng, hoàn thiện và từng bước tối ưu hóa cơ chế phối hợp vận hành điều tiết nước trong cả mùa cạn, mùa lũ nhằm đáp ứng các yêu cầu về phòng, chống, giảm lũ cho hạ du, cấp nước trong mùa cạn gắn với nhiệm vụ phát điện của các hồ chứa lớn, quan trọng trên các lưu vực sông.
Sáu là, xây dựng cơ chế giám sát thường xuyên, liên tục các hoạt động khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước thông qua việc áp dụng công nghệ tự động, trực tuyến, cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục. Trước hết tập trung đối với hoạt động xả nước thải của các cơ sở xả nước thải lớn, gây ô nhiễm nguồn nước và việc vận hành, điều tiết nước của các hồ chứa thủy điện, thủy lợi, nhất là các hồ có khả năng điều tiết dòng chảy trên 11 lưu vực sông lớn, quan trọng.
Bảy là, thành lập các Ủy ban lưu vực sông và đưa vào hoạt động để thực hiện có hiệu quả cơ chế điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN, phòng, chống tác hại do nước gây ra trên một số lưu vực sông lớn, quan trọng, nhằm giải quyết hài hòa, có hiệu quả, bền vững các vấn đề về chung TNN giữa các bên liên quan, giữa thượng lưu, hạ lưu và giữa khai thác với bảo vệ trong khuôn khổ toàn lưu vực sông. Đồng thời, đổi mới cơ chế, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng quốc gia về TNN; tăng cường năng lực, bao gồm cả tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất, công cụ kỹ thuật, thông tin cho các cơ quan quản lý chuyên ngành về TNN từ trung ương đến các cấp ở địa phương./.
 

*Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5(285), tháng 3/2015)


Thống kê truy cập

33950044

Tổng truy cập