Hoàn thiện pháp luật tài chính công nhằm thực hiện chính sách quản lý nợ công

01/03/2015

TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

Giảng viên Bộ môn Luật Kinh doanh, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội.

Việc ban hành nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) là thuộc thẩm quyền của Quốc hội, nhưng để duy trì nền tài chính quốc gia vững mạnh thì cần có chính sách tài chính công (TCC) với các định hướng cơ bản về thu, chi ngân sách chứa đựng những nội dung kinh tế định hướng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường. Bài viết đề cập đến một số khía cạnh về ban hành chính sách TCC, thực hiện quyền vay nợ của Nhà nước và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật TCC sau khi Hiến pháp năm 2013 và Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã được ban hành. 
Untitled_252.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Cơ sở ban hành chính sách tài chính công và quyền vay nợ của Nhà nước
1.1. Hiến định thẩm quyền ban hành chính sách TCC
Chính sách TCC hay còn gọi là chính sách tài khóa trong kinh tế học vĩ mô là chính sách thông qua thu thuế, vay nợ và đầu tư công để tác động tới nền kinh tế. Chính sách TCC cùng với chính sách tiền tệ có tác động quyết định đến duy trì thể chế kinh tế thị trường.
Hiến pháp năm 2013 quy định quyền thu thuế của Nhà nước nhằm duy trì nhiệm vụ chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 trao quyền cho Quốc hội quyết định dự toán NSNN trong đó có khoản thu từ vay nợ trong và ngoài nước để bảo đảm cân đối thu chi ngân sách.
Chính sách TCC có liên quan trực tiếp đến việc tạo nguồn thu NSNN để thực hiện các nhiệm vụ chi đặt ra bao gồm các định hướng trong chính sách thuế, chính sách vay nợ và chính sách chi NSNN.
Chính sách thuế là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định[1]. Mặc dù thuế là khoản thu hoa lợi của ngân sách nhưng số thu về thuế phụ thuộc vào thực trạng tiêu dùng và tạo ra thu nhập của các chủ thể trong nền kinh tế. Trong bối cảnh nhiều ngành, lĩnh vực có nhu cầu đầu tư lớn thì nguồn vốn tạo lập từ khoản vay của Nhà nước là điều kiện tiên quyết để duy trì các hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế.
Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm quyền của Quốc hội quyết định chính sách cơ bản vềtài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP); quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toánNSNN và phân bổ NSTW, phê chuẩn quyết toán NSNN (khoản 4 Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Nội dung quy định này vừa là xác định thẩm quyền của Quốc hội, vừa đồng thời quy định nội dung cơ bản của chính sách TCC.
Như vậy, có thể thấy, chính sách TCC được ban hành nhằm các mục tiêu: (i) bảo đảm tạo lập nguồn thu để thực hiện các nhiệm vụ chi của NSNN; (ii) bảo đảm các khoản chi cần thiết được đưa vào dự toán NSNN nhằm thực hiện lợi ích của cộng đồng[2].        
1.2. Luật hóa nội dung chính sách quản lý nợ công
Vay nợ của Nhà nước là một hoạt động tiến hành thường xuyên để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư phát triển của Nhà nước, thông qua đó thúc đẩy các giao dịch trong nền kinh tế. Các định hướng trong chính sách vay nợ nhằm thực hiện các chính sách phát triển kinh tế nhưng phải được cụ thể hóa trong văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi lẽ, vay nợ của Nhà nước là việc xác lập nghĩa vụ trả nợ đối với các chủ thể cho vay, thông qua đó, Nhà nước mà cụ thể là Chính phủ hoặc Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh có thể sử dụng khoản vay để thực hiện dự toán NSNN đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.  
Chính sách quản lý nợ công là một tác nhân ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ, vay nợ nước ngoài, có thể là căn cứ thực hiện một kênh phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước, cho nên quyết định vay nợ của Nhà nước phải được xem xét tổng thể nhằm bảo đảm phù hợp với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế trong từng thời kỳ.
Những định hướng cơ bản trong chính sách quản lý nợ công cũng chính là một phần của chính sách TCC và được ghi nhận trong Luật NSNN, Luật Quản lý nợ công và Nghị quyết của Quốc hội. Nội dung chủ yếu của chính sách quản lý nợ công được luật hóa thành các quy phạm pháp luật về thẩm quyền, bao gồm: (i) thẩm quyền của Quốc hội quyết định chỉ tiêu bảo đảm an toàn nợ công, khoản vay nhằm bù đắp bội chi, (ii) thẩm quyền của cơ quan hành pháp trong đàm phán, ký kết vay nợ và quản lý, sử dụng khoản vay.
- Về thẩm quyền của Quốc hội:
Hiến pháp năm 2013 quy định, Quốc hội có thẩm quyền quyết định dự toán NSNN hàng năm. Trong nội dung quyết định dự toán NSNN hàng năm có tỉ lệ vay bù đắp bội chi. Có nghĩa là các khoản vay cấu thành trong dự toán NSNN hàng năm đều do Quốc hội quyết định, thuộc về trách nhiệm trả nợ quốc gia và phải cân đối NSNN hàng năm để trả các khoản nợ đến hạn.
Còn theo Luật Quản lý nợ công, Quốc hội có thẩm quyền cao nhất trong quyết định tình trạng nợ của quốc gia và thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Quốc hội có thẩm quyền quyết định các chỉ tiêu an toàn về nợ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, bao gồm: Nợ công so với GDP; Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP; Trả nợ Chính phủ so với tổng thu NSNN; Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu (khoản 1 Điều 7).
Về nguyên tắc, quyết định vay nợ của Quốc hội nhằm bảo đảm cân đối ngân sách. Cụ thể là vay nợ trong trong trường hợp có bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách (khoản 1 Điều 8 Luật NSNN năm 2002).
Việc quản lý nợ công đòi hỏi phải quản lý tổng thể không phải chỉ tại thời điểm vay mà trong một giai đoạn phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Luật Quản lý nợ công quy định Quốc hội quyết định tổng mức, cơ cấu vay và trả nợ hàng năm của Chính phủ gắn với dự toán NSNN; quyết định mục tiêu, định hướng, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn 5 năm nhằm bảo đảm chi tiêu an toàn nợ ( khoản 2, 3 Điều 7 Luật Quản lý nợ công). Đây là cơ sở để bảo đảm nợ công được quản lý khoa học và có kế hoạch.
- Về thẩm quyền quản lý nợ công của cơ quan hành pháp:
Khoản vay nợ của NSTW do Quốc hội quyết định trong dự toán NSNN hàng năm, khoản vay nợ này có thể được trực tiếp sử dụng cho các khoản chi đầu tư phát triển của NSTW hoặc phân bổ cho các địa phương theo chương trình mục tiêu do Quốc hội quyết định. Việc Quốc hội quyết định tổng mức đầu tư hàng năm là căn cứ để xác định khoản vay bù đắp bội chi và làm cơ sở cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Chính phủ trực tiếp đàm phán, ký kết với bên nước ngoài hoặc quyết định vay từ phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc Chính phủ ủy quyền cho Bộ Tài chính phát hành trái phiếu. Khoản vay nợ chi cho chương trình mục tiêu không chỉ phục vụ  nhu cầu chi đầu tư phát triển của NSTW mà còn phục vụ cho nhu cầu chi của NSĐP[3].
Còn đối với khoản vay do Chính phủ vay và cho vay lại, tuy trách nhiệm trả nợ thuộc về chủ thể vay lại, nhưng, khi khoản vay không được hoàn trả theo cam kết cho vay thì trách nhiệm cuối cùng lại thuộc về Nhà nước mà cụ thể là Chính phủ phải cân đối từ NSTW để trả nợ thay. Đối với khoản nợ do chính quyền địa phương (CQĐP) vay để đầu tư phát triển thì CQĐP phải tự cân đối ngân sách để trả nợ. Theo Luật NSNN hiện hành, CQĐP mà cụ thể là UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể huy động vốn trong nước để đầu tư phát triển xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách tỉnh bảo đảm đã được Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định khi vượt quá khả năng cân đối của ngân sách tỉnh năm dự toán, mức dư nợ nguồn vốn huy động không được vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách tỉnh (khoản 3 Điều 8 Luật NSNN năm 2002)  
Như vậy, cụ thể hóa chính sách vay nợ dưới góc độ pháp lý, quyền vay nợ của Nhà nước có thể được thực hiện khi được ghi nhận trong Luật NSNN, Luật Quản lý nợ công và Nghị quyết của Quốc hội hàng năm về dự toán NSNN. Tùy thuộc vào khoản nợ của cấp ngân sách nào mà Chính phủ và UBND tỉnh phải cân đối ngân sách hoặc tạo lập quỹ để trả nợ. Có thể nói, trong thực hiện chính sách quản lý nợ công, quyết định vay nợ của cơ quan quyền lực đã chuyển hóa thành nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện của cơ quan hành pháp. Cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực và trước pháp luật về việc triển khai thực hiện thẩm quyền quản lý nợ công.   
2. Hoàn thiện pháp luật tài chính công nhằm bảo đảm an toàn trong vay nợ
Quyền kiểm soát nợ công trong Dự thảo Luật NSNN (sửa đổi)
Dự thảo Luật NSNN (sửa đổi)[4] (gọi tắt là Dự thảo) đưa ra định nghĩa chi tiết về khoản nợ của Nhà nước. Cụ thể là: “nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ và các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật (khoản 3 Điều 3 Dự thảo); Nợ CQĐP là khoản nợ do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành (khoản 4 Điều 3 Dự thảo). Sự cụ thể hóa của điều khoản này cho thấy, mặc dù Luật NSNN ghi nhận quyền quyết định vay bù đắp bội chi và khoản vay của NSĐP nhưng thực chất trách nhiệm vay và trả nợ thuộc về cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương là Chính phủ và địa phương là UBND tỉnh. Từ quy định này cũng có thể hiểu quyền vay và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ gắn với thực hiện nhiệm vụ chi của NSTW, còn quyền vay và nghĩa vụ trả nợ của UBND tỉnh gắn với thực hiện nhiệm của chi của NSĐP với tư cách là cấp ngân sách độc lập trong quan hệ với NSTW. 
Đối với khoản vay của Chính phủ để đầu tư vào các công trình thuộc kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn, có thể thấy mục đích thực hiện công trình vì lợi ích của cộng đồng là yếu tố ràng buộc trách nhiệm sử dụng NSTW để trả nợ. Việc bảo đảm khoản đầu tư được sử dụng đúng mục đích, tránh thất thoát lãng phí và tiết kiệm là yêu cầu đặt ra. Để làm được điều này, phải có sự nỗ lực của các cơ quan có thẩm quyền quản lý nợ công và cơ quan quyết định đầu tư xây dựng.
Đối với trường hợp Chính phủ bảo lãnh cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước và nước ngoài, về nguyên tắc, chủ thể được bảo lãnh phải có trách nhiệm trả nợ các khoản vay. Tuy nhiên, với trách nhiệm của người bảo lãnh, Chính phủ có thể phải gánh hoàn toàn trách nhiệm trả nợ thay khi doanh nghiệp không thanh toán được khoản vay đến hạn. Có nghĩa là nợ một số doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh trở thành gánh nặng của ngân sách quốc gia. Áp lực này cũng khiến cho sự gia tăng tình trạng bội chi ngân sách do NSTW phải gánh chịu những khoản chi bất thường vì phải thực hiện trách nhiệm trả nợ.   
Đối với khoản nợ của địa phương, đây là khoản vay liên quan đến trách nhiệm trả nợ của CQĐP, mặc dù khoản vay này cấu thành trong cơ cấu ngân sách tự cân đối để trả nợ nhưng vẫn nằm trong tỷ lệ an toàn nợ công của quốc gia, có nghĩa là việc vay nợ cũng có ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tài chính nói chung.  
Như vậy, Dự thảo tuy có tách bạch rõ ràng khoản vay nợ của NSTW và NSĐP nhưng chưa xác định trách nhiệm của các chủ thể trong quyết định vay nợ, quản lý và sử dụng khoản vay. Vấn đề đặt ra là các khoản vay có thể thực hiện trong năm ngân sách để thực hiện các dự án mới, còn khoản nợ phải trả và lãi suất phải trả sẽ được cân đối bằng ngân sách hàng năm. Nếu không tính toán được chính xác hiệu quả sử dụng vốn của các chương trình, dự án, thì chỉ việc Quốc hội quyết định chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng sử dụng vốn vay và quản lý nợ công cũng chưa đủ cơ sở pháp lý để kiểm soát có hiệu quả tình trạng nợ công. Tính hợp lý, khoa học và khả thi trong các đề xuất chương trình, dự án sử dụng khoản vay để đầu tư của Chính phủ là cơ sở cần thiết để Quốc hội cân nhắc và quyết định. Quốc hội trong phạm vi thẩm quyền, ngoài quyết định chỉ tiêu an toàn vay nợ hàng năm, các chương trình mục tiêu quốc gia cần thiết phải giám sát tính hiệu quả của việc sử dụng vốn, đình chỉ kịp thời các chương trình dự án không có hiệu quả và tạo lợi ích nhóm trong thực hiện các công trình[5].        
Hiện nay, ngoài Hiến pháp năm 2013, Luật NSNN năm 2002 cũng là cơ sở pháp lý xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với quỹ NSNN. Đối với khoản vay của Nhà nước, quyền sử dụng vốn được xác lập tạm thời nên việc minh bạch trách nhiệm trả nợ và kiểm soát nợ công sẽ là yếu tố góp phần bảo đảm sự lành mạnh của nền tài chính quốc gia và kiểm soát việc thực hiện trách nhiệm của các chủ thể trong quản lý, sử dụng khoản vay của Nhà nước.
Quy định chi tiết nghĩa vụ cân đối trả nợ và quản lý quỹ trả nợ
Luật NSNN năm 2002 quy định khoản chi trả nợ gốc và lãi khoản vay nợ do Chính phủ vay (khoản 3 Điều 31) và khoản chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư của CQĐP (khoản 3 Điều 33). Đây là căn cứ để ngân sách các cấp phải bố trí khoản chi để trả nợ.
Kế thừa quy định này, Dự thảo quy định: Chi trả nợ là nhiệm vụ chi của NSNN để thực hiện chi trả các khoản lãi phát sinh do Chính phủ vay trong nước và nước ngoài để bù đắp bội chi NSNN, chi trả các khoản nợ gốc và lãi phát sinh do NSĐP huy động cho đầu tư theo quy định (khoản 13 Điều 4 Dự thảo). Tuy nhiên, sự ghi nhận trách nhiệm trả nợ do Chính phủ vay chưa đầy đủ, vì Chính phủ còn phải trả khoản nợ gốc nữa (có lẽ Dự thảo quên mất khoản này).
Về mặt pháp lý, Chính phủ đã ban hành Quyết định 01/2013/QĐ-TTg ngày 7/1/2013 về ban hành Quy chế lập, sử dụng và quản lý Quỹ tích lũy trả nợ. Đây là quỹ thuộc NSNN (Điều 2). Về bản chất, Quỹ này là tập hợp tài sản nhằm mục đích trả nợ các khoản vay của Nhà nước vay và cho vay lại, thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Tuy nhiên, vị trí pháp lý của Quỹ chưa được cụ thể hóa trong Luật NSNN dẫn đến sự thiếu minh bạch trong việc sử dụng và kiểm soát khả năng tích lũy để trả nợ của Quỹ. Việc chưa ghi nhận vị trí pháp lý của Quỹ trong Luật NSNN và việc quản lý, sử dụng quỹ chưa được giám sát chặt chẽ bởi Quốc hội nên Quỹ dễ bị lạm dụng trong sử dụng có thể gây thất thoát cho NSNN khi Quỹ không cân đối được để trả nợ các khoản nợ đến hạn theo yêu cầu[6]. Ngoài ra, bên cạnh việc ghi nhận vị trí pháp lý của Quỹ trong Dự thảo, cần có quy định buộc công khai việc sử dụng Quỹ nhằm bảo đảm an toàn nợ công và kiểm soát quyết định vay nước ngoài để cho vay lại và bảo lãnh vay nước ngoài của Chính phủ đối với doanh nghiệp.  
Minh bạch, công khai thông tin nợ công và bội chi ngân sách
Tình trạng bội chi ngân sách hàng năm là một chỉ tiêu phản ánh nợ công của quốc gia. Sự minh bạch, công khai thông tin về tình trạng nợ công và bội chi ngân sách là căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội về nội dung thực hiện chính sách TCC. Yêu cầu này cũng là nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013.
Theo Dự thảo, bội chi NSNN được bù đắp từ các nguồn: vay trong nước từ phát hành trái phiếu Chính phủ bao gồm cả trái phiếu Chính phủ để đầu tư cho các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, công trái xây dựng Tổ quốc và các khoản vay trong nước khác của Chính phủ; vay nước ngoài từ các khoản vay của Chính phủ các nước; các tổ chức quốc tế (khoản 3 Điều 7 Dự thảo). Quy định này chỉ tạo ra tiền đề để Chính phủ thực hiện vay nợ nhằm bù đắp bội chi mà chưa phải là căn cứ để buộc Chính phủ cũng phải minh bạch các thông tin liên quan đến vay nợ. 
Sự gia tăng khoản bội chi ngân sách hàng năm sẽ làm phình gánh nặng nợ công, cũng đồng thời làm tăng gánh nặng cho người nộp thuế. Bởi vậy, sự ghi nhận cụ thể về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong quản lý nợ công và công khai tình trạng nợ công sẽ bảo đảm sự an toàn thực tế cho các quyết sách của Quốc hội về các chỉ tiêu vay nợ.
Quy định trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng dự toán NSNN về đầu tư phát triển
- Trách nhiệm của cơ quan tham gia xây dựng dự toán NSNN:
Trên thực tế, việc đầu tư phát triển của NSTW và khoản cân đối có mục tiêu cho NSĐP chủ yếu sử dụng bằng nguồn vốn đi vay. Theo quy trình lập dự toán ngân sách đối với đầu tư phát triển sử dụng từ vay nợ, có thể thấy, khi có nhu cầu thì bố trí nguồn vốn bằng vay nợ, do đó dẫn tới việc NSNN luôn bị động trước yêu cầu cần đầu tư[7].
Hơn thế nữa, đối với các dự án thuộc các Chương trình mục tiêu do Quốc hội quyết định, việc quyết định không chi tiết dẫn đến việc thu xếp nguồn vốn khó đáp ứng được nhu cầu; ngoài ra, những minh chứng về tính hiệu quả của Dự án chưa được làm rõ khi Chương trình tổng thể chưa được giải trình cụ thể. Có nghĩa là việc quyết định tổng đầu tư cho Chương trình trong khi chưa có cơ sở giải trình vững chắc khiến cho đề xuất của Chính phủ hàm chứa nhiều rủi ro cho nền kinh tế, khi mọi quy trình quản lý nợ công vẫn do cơ quan này thực hiện.
Mặc dù cơ quan có thẩm quyền có thể vay bù đắp bội chi theo nguyên tắc cân đối ngân sách, nhưng khi Luật NSNN chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các chủ thể trong việc đề xuất các khoản vay để thực hiện các chương trình, dự án thì bản thân Luật NSNN lại hàm chứa một rủi ro pháp lý rất lớn tạo ra sự tùy tiện trong vay nợ để thực hiện Dự án.  
Hiện nay, hành vi vi phạm bị cấm trong lĩnh vực ngân sách được bổ sung trong Dự thảo bao gồm: hành vi vay trái quy định của pháp luật; vay vượt quá khả năng cân đối của ngân sách (khoản 5 Điều 17). Các loại hành vi này có liên quan đến trách nhiệm của Chính phủ và CQĐP quyết định các khoản chi. Tuy nhiên, cần ghi nhận rõ trách nhiệm của chủ thể tham gia lập đề án khả thi để đưa dự án vào đối tượng được cân đối ngân sách. 
Ngoài ra, sự đột phá trong ghi nhận kế hoạch tài chính - NSNN trung hạn, kế hoạch đầu tư công trung hạn trong Dự thảo cũng là một định hướng trong thực hiện chính sách vay nợ. Tuy nhiên, để các kế hoạch trung hạn này khả thi, ngoài nhu cầu thực tế trong quản lý kinh tế xã hội, phát triển kinh tế và lợi ích chung của cộng đồng, cần có sự công tâm của các cơ quan và người có thẩm quyền trong việc đưa vào dự toán NSNN các khoản chi chưa thực sự cần thiết để tránh tình trạng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ công cho thế hệ sau[8].
- Đối với chủ thể quản lý và sử dụng vốn vay của Nhà nước:
Thực tế cho thấy, tình trạng bội chi ngân sách gia tăng thường kèm theo tình trạng tham nhũng, đầu tư công kém hiệu quả[9]. Do nguồn vốn cho đầu tư phát triển hình thành từ vay nợ và trách nhiệm trả nợ cuối cùng thuộc về người nộp thuế nên việc thực hiện chính sách nợ công, pháp luật về quản lý nợ công không chỉ thuộc về cơ quan đàm phán vay nợ và thu xếp khoản nợ mà chính là các chủ thể trực tiếp được giao là chủ đầu tư sử dụng vốn ngân sách.
Nhiệm vụ chi đầu tư phát triển hiện nay có thể nhằm thực hiện các công trình thuộc kết cấu hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn và các công trình có khả năng thu hồi vốn để cung cấp các tiện ích cho người dân và hỗ trợ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sử dụng vốn ngân sách cũng chính là cơ hội để các doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận. Việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư có vốn NSNN cũng chính là quá trình để các chủ thể đạt được mục đích của mình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để bảo đảm thực hiện mục đích đầu tư công, lợi ích của các chủ thể tham gia thực hiện dự án, hưởng lợi từ dự án và lợi ích của Nhà nước. 
Luật NSNN hiện hành chỉ quy định trình tự, thủ tục để Quốc hội thông qua dự toán NSNN hàng năm. Việc tuân thủ đúng trình tự, thủ tục để Quốc hội ban hành Bản dự toán NSNN cũng không thể đưa ra kết quả quyết định chi tiết về chi đầu tư phát triển. Quốc hội chỉ dừng lại ở thực hiện quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án quan trọng bằng nguồn vốn NSNN; mức bổ sung của NSTW cho NSĐP, trong đó có chi bổ sung có mục tiêu. Có nghĩa là, Quốc hội chỉ quyết định nội dung chi và số chi dựa trên đề xuất của Chính phủ và có thẩm định của Ủy ban Tài chính, ngân sách của Quốc hội.
Việc chi đầu tư phát triển có đúng mục đích, có hiệu quả hay không cần phải làm rõ trách nhiệm của các cơ quan tham gia quá trình chấp hành ngân sách với tư cách là cơ quan quyết định đầu tư, cơ quan chủ đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công. Theo đó, Luật NSNN với tư cách là Luật ghi nhận lợi ích của các chủ thể trong sử dụng NSNN nên cần thiết phải quy định trách nhiệm của các chủ thể trong quản lý, sử dụng vốn vay của Nhà nước được sử dụng vào đầu tư công, làm tiền đề kiểm soát và giám sát NSNN.                
Xác lập vị trí của Kiểm toán Nhà nước trong kiểm toán NSNN          
Theo Hiến pháp năm 2013, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (khoản 1 Điều 118). Ngoài ra, Tổng KTNN chịu trách nhiệm và báo cáo kết quả kiểm toán, báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội (khoản 2 Điều 118). Còn theo Luật KTNN năm 2005, KTNN có nhiệm vụ tham gia với Ủy ban Kinh tế, ngân sách của Quốc hội, các cơ quan khác của Quốc hội trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán NSNN, Phương án phân bổ NSTW, Phương án điều chỉnh dự toán NSNN, Phương án bố trí ngân sách cho dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định và quyết toán NSNN (khoản 5, Điều 15).
Với trách nhiệm tham gia kiểm toán hoạt động để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của Nhà nước, KTNN có thể đưa ra ý kiến về chuyên môn giúp cho các cơ quan của Quốc hội hoàn thiện báo cáo thẩm tra để trình lên Quốc hội quyết định. Do Quốc hội chỉ quyết định các vấn đề tại phiên họp theo đánh giá dựa trên kết quả thẩm tra báo cáo của Ủy ban Tài chính, ngân sách về dự toán NSNN và quyết toán ngân sách, nên sự tham gia của KTNN với tư cách là cơ quan chuyên môn trong kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của các chương trình, dự án đầu tư trước khi được bố trí ngân sách để thực hiện, là việc làm vô cùng quan trọng.
Báo cáo của KTNN có thể được sử dụng làm cơ sở kiến nghị để xem xét, đánh giá việc quyết toán NSNN, và là căn cứ để cơ quan có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của những chủ thể có hành vi vi phạm.      
Do mục đích của chính sách TCC nhằm hướng tới lợi ích của cộng đồng nên việc đề cao sự đánh giá tính kinh tế, hiệu quả của việc thực hiện các dự án đầu tư phát triển có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm tính hợp lý trong quyết sách của Quốc hội. Với kết quả kiểm toán, Quốc hội sẽ có những quyết sách phù hợp như có tiếp tục đầu tư hay không, khắc phục những bất cập trong quản lý vốn ngân sách đầu tư như thế nào? Với kinh nghiệm và khả năng thu thập thông tin về thực hiện các chương trình, dự án, KTNN chính là tổ chức phù hợp trong việc đưa ra những ý kiến thẩm định các chương trình, dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội và bố trí vay nợ để đầu tư bởi NSTW. Luật Đầu tư công năm 2014 đã ghi nhận sự tham gia của KTNN thực hiện kiểm toán về kế hoạch, chương trình, dự án theo yêu cầu của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, cần quy định về yêu cầu kiểm toán bắt buộc đối với kế hoạch, chương trình mà Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư và các chương trình, dự án có ảnh hưởng lớn về kinh tế - xã hội.   
Có thể nói, hoàn thiện Luật NSNN, Luật Quản lý nợ công là tiền đề quan trọng để bảo đảm thực thi chính sách quản lý nợ công. Vay nợ để bù đắp bội chi là việc làm cần thiết, nhưng cần phải đặt quyền vay nợ nằm trong sự kiểm soát của pháp luật. Pháp luật ngoài việc trao quyền quy định các tỷ lệ an toàn về nợ công cho Quốc hội quyết định thì cần quy định chi tiết nghĩa vụ công khai, minh bạch các thông tin vay nợ để làm cơ sở giám sát NSNN, giám sát cộng đồng. Thực hiện chính sách TCC nhằm phát triển kinh tế nhưng từ thực hiện chính sách đến đánh giá được hiệu quả của chính sách trên thực tế thì cần khung pháp luật TCC để ngăn ngừa những vi phạm có khả năng phát sinh, bảo vệ lợi ích quốc gia cũng như lợi ích của các chủ thể hưởng lợi - người nộp thuế./.

 


* TS. Giảng viên Bộ môn Luật Kinh doanh, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội.
[1] Học viện Tài chính, Giáo trình lý thuyết thuế, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2010, tr 45.
[2] Chính sách tài khóa điều tiết các hoạt động kinh tế phải dựa vào các công cụ chính sách bao gồm: dự toán ngân sách quốc gia, chi tiêu NSNN, thuế nhà nước, công trái, hỗ trợ tài chính. Giáo trình kinh tế học vĩ mô I, Học viện Tài chính, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2010, tr 53-59. 
[3] Thực hiện các chương trình mục tiêu bằng NSTW tại các địa phương.
[4] Dự thảo Luật NSNN sửa đổi lần 2, tải từ http://duthaoonline.quochoi.vn
[5] Luật Doanh nghiệp năm 2014 được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIII quy định về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Chương IV. Theo đó DNNN có vị trí pháp lý bình đẳng như các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, nhưng trong quan hệ với các cơ quan quản lý sử dụng vốn vay nợ của Nhà nước, dường như DNNN có lợi thế hơn do sự có quan hệ sở hữu chặt chẽ với cơ quan quản lý vốn vay của Nhà nước.  
[6] Hiện nay nhiều DNNN trông chờ vào Quỹ tích lũy trả nợ để trả các món nợ “khủng” của các dự án xi măng được Chính phủ bảo lãnh. Nhiều ý kiến lo ngại Quỹ sẽ cạn nguồn dẫn đến sẽ phải vượt giới hạn bội chi cho phép trong năm để hỗ trợ nguồn cho Quỹ. Tham khảo: Minh Anh “Quỹ tích lũy trả nợ: đang gánh nhiều món nợ của doanh nghiệp”Báo Hải quan ngày 8/4/2014. 
[7] Chẳng hạn, định hướng đầu tư xây dựng Sân bay Long Thành bởi Bộ Giao thông vận tải vào cuối năm 2014 với số chi khổng lồ, nếu được Quốc hội chấp thuận đầu tư thì một nguồn vốn khổng lồ sẽ chảy vào Dự án này, trong khi chưa biết khi nào lợi ích thực mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thu được từ việc đầu tư mới đạt được.
[8] Dự án Ký túc xá trăm tỷ tại tỉnh Lâm Đồng có nguy cơ bị bỏ hoang do thiếu khả thi từ khâu dự báo và hạ tầng thiếu đồng bộ, trong khi có nguồn vốn đầu tư là 215,1 tỉ đồng từ phát hành trái phiếu Chính phủ và 12,7 tỉ đồng từ NSĐP là một bài học lớn buộc các cơ quan tham gia lập dự toán NSNN phải có trách nhiệm trong quyết định và sử dụng có hiệu quả sự đóng góp của người dân. Tham khảo bài Vũ Đình Đông: Ký túc xá trăm t trước nguy cơ bỏ hoang” Báo Quân đội nhân dân ngày 20/9/2014.    
[9] Tham khảo bài của Lan Nhi, “Thủ tướng Chính phủ: Nợ công lớn do đầu tư kém hiệu quả và tham nhũng” ngày 19/11/2014, tải tử httt:///www.thesaigontimes.vn.
 
 
 
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6(286), tháng 3/2015)


Thống kê truy cập

33950057

Tổng truy cập