Nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công ở cấp huyện theo cơ chế một cửa liên thông

01/01/2015

NGUYỄN ĐẶNG PHƯƠNG TRUYỀN

Bộ môn Văn bản và Công nghệ hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia

Một trong ba trọng tâm của Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công[1].Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, đặc biệt ở cấp huyện thì việc cung ứng dịch vụ hành chính công theo cơ chế một cửa liên thông đang là hướng đi đúng, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho tổ chức và công dân. Tuy nhiên, việc cung ứng dịch vụ hành chính công tại cấp huyện theo cơ chế này vẫn còn một số hạn chế cần sớm khắc phục.
Untitled_275.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Dịch vụ hành chính công và cơ chế một cửa liên thông tại cấp huyện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (năm 1999) lần đầu tiên đề cập đến khái niệm “dịch vụ công”[1]. Trong giới khoa học, dù có nhiều cách định nghĩa về dịch vụ công, nhưng nhiều người đã chung quan điểm: “Dịch vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được nhà nước uỷ quyền để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân, theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội”[2].
Cách phân loại phổ biến của nhiều người hiện nay là chia dịch vụ công thành dịch vụ công cộng (gồm dịch vụ sự nghiệp công[3] và dịch vụ công ích) và dịch vụ hành chính công. Qua cách phân loại này, các tác giả khẳng định sự tồn tại của dịch vụ hành chính công ở nước ta và xem dịch vụ hành chính công là một loại dịch vụ công. Trong khi đó “nhiều nước không sử dụng khái niệm dịch vụ hành chính công mà chỉ sử dụng khái niệm dịch vụ công với nghĩa là tất cả dịch vụ nào thuộc về chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”[4]. Đồng thời, nhiều quốc gia[5] trong đó có Việt Nam sử dụng khái niệm dịch vụ hành chính công vì hiện nay Nhà nước còn quản lý khá nhiều hoạt động của các tổ chức, công dân trên các lĩnh vực và các tổ chức, công dân phải xin phép các cơ quan nhà nước đối với nhiều loại hoạt động “trong điều kiện đó chúng ta gọi loại dịch vụ đặc thù này là dịch vụ hành chính công (hoặc dịch vụ hành chính) là cần thiết để phân biệt nó với loại dịch vụ phục vụ các nhu cầu có tính phúc lợi xã hội”[6]. Hơn thế nữa, việc thừa nhận khái niệm dịch vụ hành chính công rất phù hợp với xu thế đổi mới trong hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta khi “xác định đây là một loại hình dịch vụ công còn là để thúc đẩy thái độ phục vụ người dân của cán bộ, cơ quan nhà nước, tránh tình trạng cửa quyền hiện vẫn đang tồn tại trong các cơ quan hành chính và công chức hiện nay”[7]. Như vậy, hiện nay ở nước ta khái niệm dịch vụ hành chính công được sử dụng để chỉ một loại hình dịch vụ công đặc thù gắn liền với chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân, chủ thể cung ứng các dịch vụ hành chính công là cơ quan nhà nước hoặc các cơ quan được Nhà nước ủy quyền[8].
Về mặt pháp lý, Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ xác định: “Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý”[9]. Tuy nhiên, Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ lại xác định: “Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý”[10]. Như vậy, khái niệm dịch vụ hành chính công trong Nghị định số 64/2007/NĐ-CP có nội hàm rộng hơn trong Nghị định số 43/2011/NĐ-CP vì Nghị định số 43/2011/NĐ-CP xác định chủ thể cung ứng dịch vụ hành chính công là “cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, trong khi đó Nghị định số 64/2007/NĐ-CP xác định chủ thể cung ứng dịch vụ hành chính công là “cơ quan nhà nước (hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền”.
Dịch vụ hành chính công được chúng tôi tiếp cận theo cách hiểu của Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, tức là tiếp cận dịch vụ hành chính công dưới góc độ những dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước, chỉ do cơ quan nhà nước thực hiện, không bao gồm dịch vụ hành chính công do các tổ chức được Nhà nước ủy quyền thực hiện, đồng thời “mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân”. Do đó, dịch vụ hành chính công cấp huyện cũng được hiểu từ góc độ tiếp cận này.
Từ những phân tích trên, có thể hiểuDịch vụ hành chính công ở cấp huyện là những dịch vụ liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện, do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ở cấp huyện thực hiện nhằm cung cấp cho các tổ chức, cá nhân các loại giấy tờ pháp lý. Các dịch vụ hành chính công tại cấp huyện gắn liền với các loại thủ tục hành chính được thực hiện tại cấp huyện.
Như vậy, hiện nay các dịch vụ hành chính công ở cấp huyện gắn với chức năng quản lý nhà nước của UBND cấp huyện, thông qua việc giải quyết các thủ tục hành chính tại cấp huyện. Để thực hiện chức năng này, cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp tổ chức, công dân như: đăng ký, cấp giấy phép, cấp giấy chứng nhận, công chứng, hộ tịch… Tổ chức, công dân được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường mà thông qua việc đóng lệ phí hoặc phí cho các cơ quan hành chính nhà nước theo quy định[11]; phần phí, lệ phí này mang tính chất hỗ trợ ngân sách nhà nước, chủ yếu phục vụ việc đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công.
Hiện nay, các địa phương tiến hành cung ứng dịch vụ hành chính công theo cơ chế một cửa liên thông nhằm đáp ứng nhu cầu của tổ chức và công dân. Cơ chế một cửa liên thông là cơ chế giải quyết thủ tục hành chính với một cơ quan là đầu mối trong việc nhận và trả kết quả, cơ quan này sẽ phối hợp với các cơ quan chuyên môn để giải quyết hồ sơ, thủ tục cho tổ chức và công dân. Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế một cửa, một cửa liên thông quy định: “Cơ chế một cửa liên thông là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp hoặc giữa các cấp hành chính từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả được thực hiện tại một đầu mối là bộ phận tiếp nhận và trả kết quả”.Như vậy,cơ chế một cửa liên thông trong cung ứng dịch vụ hành chính công tại cấp huyện là cơ chế giải quyết thủ tục hành chính về dịch vụ hành chính công cho tổ chức, công dân mà trong đó tổ chức, công dân chỉ cần đến nộp hồ sơ tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thuộc Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện[12], các cơ quan có liên quan sẽ có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết hồ sơ, thủ tục cho công dân, người dân sẽ đến nhận lại kết quả tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả.
2. Những hạn chế trong thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công ở cấp huyện theo cơ chế một cửa liên thông
Việc cung ứng dịch vụ hành chính công ở cấp huyện theo cơ chế một cửa liên thông là một giải pháp đúng đắn của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề này còn tồn tại một số hạn chế nhất định như sau:
Thứ nhất, tổ chức và công dân còn phải đến nhiều nơi để nộp hồ sơ, thủ tục về dịch vụ hành chính công
Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với thủ tục hành chính nhất định. Do đó, để thụ hưởng dịch vụ hành chính công khi có nhu cầu, tổ chức và công dân phải tiến hành nộp hồ sơ đề nghị giải quyết. Theo đó, khi cơ quan nhà nước cấp huyện triển khai cung ứng dịch vụ hành chính công theo cơ chế một cửa liên thông thì tổ chức và cá nhân đến nộp hồ sơ tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước cấp huyện (Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thuộc Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện). Tuy nhiên, khi có nhu cầu về một số dịch vụ hành chính công như: đăng ký kinh doanh, đất đai, chứng thực... thì người dân ở nhiều địa phương vẫn phải nộp hồ sơ trực tiếp cho các phòng chuyên môn của UBND cấp huyện:
i) Khi có nhu cầu về dịch vụ hành chính công thuộc lĩnh vực đất đai, người dân phải nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường) vì dịch vụ hành chính công này thực hiện theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 và hướng dẫn của Nghị định số 88/2009/NĐ-CP: “Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất là hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, cộng đồng dân cư tại phường nộp hồ sơ và nhận Giấy chứng nhận tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện”[13]. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 và hướng dẫn của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hiện nay vẫn quy định Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND cấp huyện là cơ quan nhận hồ sơ về đất đai[14].
ii) Khi có nhu cầu về dịch vụ hành chính công thuộc lĩnh vực đăng ký kinh doanh, người dân phải nộp hồ sơ tại Phòng Kinh tế (Phòng Kinh tế và Hạ tầng) vì Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký kinh doanh quy định cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện (Phòng Kinh tế, Phòng Kinh tế - Hạ tầng): “Trực tiếp nhận hồ sơ đăng ký hộ kinh doanh; xem xét tính hợp lệ của hồ sơ và cấp hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh”[15].
iii) Khi có nhu cầu về dịch vụ hành chính công thuộc lĩnh vực chứng thực, người dân phải nộp hồ sơ tại Phòng Tư pháp vì Nghị định số 79/2007/NĐ-CP[16] và hướng dẫn Thông tư số 03/2008/TT-BTP quy định Phòng Tư pháp sẽ tiếp nhận và trả hồ sơ cho tổ chức, công dân.
Chính những điều này dẫn đến việc tổ chức, công dân còn phải đến nhiều nơi để nộp hồ sơ khi thực hiện yêu cầu về dịch vụ hành chính công. Bởi lẽ cấp huyện nhiều nơi cho rằng, khi giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến những dịch vụ hành chính công này thì áp dụng quy định trong các nghị định hướng dẫn của Chính phủ[17]. Tuy nhiên, điều này chưa thống nhất với nhiều quy định như trong Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế một cửa, một cửa liên thông[18], Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính[19], Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020[20].
Thứ hai, thủ tục hành chính để thực hiện công việc liên quan đến các dịch vụ hành chính công cấp huyện vẫn chưa thống nhất, phù hợp
Hiện nay, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của các địa phương đã công bố công khai Bộ Thủ tục hành chính áp dụng chung cho cấp huyện của từng địa phương để phục vụ việc thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công cho tổ chức, công dân. Tuy nhiên việc thống kê, rà soát, phân chia lĩnh vực thủ tục hành chính của các địa phương lại đang rất khác nhau, chưa thống nhất.
Mặt khác, các thủ tục này được rà soát, công bố từ khi thực hiện Đề án Đơn giản hóa Thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (được phê duyệt theo Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ). Hiện nay, nhiều quy định của pháp luật đã thay đổi nhưng các thủ tục hành chính để thực hiện các dịch vụ hành chính công này vẫn chưa được cập nhật, sửa đổi cho phù hợp. Nhiều cơ quan cấp huyện vẫn niêm yết thủ tục hành chính cũ đã hết hiệu lực, thậm chí, thủ tục hành chính cấp huyện trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính[21] cũng như trên trang thông tin điện tử (website) của nhiều địa phương cũng chưa cập nhật kịp thời[22].
Bên cạnh đó, hiện nay người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với những thủ tục hành chính khi có nhu cầu về dịch vụ hành chính công, vì việc công khai các loại thủ tục, hồ sơ ở nhiều nơi vẫn còn chưa được thực hiện thống nhất, người dân vẫn còn phải đến tận trụ sở cơ quan hành chính nhà nước để xin các biểu mẫu hồ sơ, thủ tục về dịch vụ hành chính công.
Thứ ba, các dịch vụ hành chính công tại cấp huyện được cung ứng theo cơ chế một cửa liên thông còn quá ít so với nhu cầu của tổ chức, công dân về dịch vụ hành chính công
Bộ Nội vụ cho biết, hiện nay Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả cấp huyện tiếp nhận thực hiện 112 thủ tục hành chính thuộc 9 lĩnh vực bao gồm: lĩnh vực tư pháp (3 thủ tục), lĩnh vực đăng ký kinh doanh (19 thủ tục), lĩnh vực đất đai (39 thủ tục), lĩnh vực môi trường (7 thủ tục), lĩnh vực xây dựng (10 thủ tục), lĩnh vực thẩm tra, phê duyệt công trình hoàn thành (1 thủ tục), lĩnh vực chứng thực (5 thủ tục), lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội (22 thủ tục), lĩnh vực tôn giáo (5 thủ tục)[23].
Tuy nhiên trong số 112 thủ tục hành chính đang thực hiện ở cấp huyện hiện nay thì các cơ quan nhà nước chỉ mới áp dụng cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết một số thủ tục nhất định “số công việc thực hiện giải quyết theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông ở các cấp hành chính chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực quản lý nhà nước như: tài nguyên và môi trường, kế hoạch và đầu tư, xây dựng, tư pháp, lao động - thương binh và xã hội”[24]. Ngoài ra, sự liên thông của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết thủ tục cho tổ chức, công dân còn nhiều hạn chế; chưa đáp ứng nhu cầu của tổ chức và công dân; tính liên thông trong xử lý công việc cho công dân và tổ chức còn thấp.
Thứ tư, việc ứng dụng công nghệ thông tin để cung ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến tại cấp huyện còn hạn chế
Hiện nay, cấp huyện của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cả nước vẫn chưa có trang thông tin điện tử (website) chính thức của cơ quan mình[25], mặc dù Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 xác định đến năm 2015 “100% các cơ quan nhà nước từ cấp quận, huyện, sở, ban, ngành hoặc tương đương trở lên có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ thông tin theo Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin, cung cấp tất cả các dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến tối thiểu mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp”. Hơn thế nữa, Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020 xác định mục tiêu của giai đoạn 2011-2015 là “100% cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định; cung cấp tất cả các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2 và hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp”. Như vậy, mục tiêu do Chính phủ đề ra đối với cấp huyện hiện nay là phải thực hiện được dịch vụ hành chính công trực tuyến ở mức độ 2 và 3, nghĩa là khi người dân có nhu cầu về dịch vụ hành chính công thì người dân chỉ cần tải các hồ sơ, biểu mẫu trên trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước cấp huyện, điền đầy đủ thông tin và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ, các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng[26].
Tuy nhiên, như đã phân tích, hiện nay cấp huyện nhiều nơi chưa xây dựng trang thông tin điện tử (cổng thông tin điện tử) hoặc có nhưng các trang thông tin điện tử (cổng thông tin điện tử) này thiếu tính cập nhật và không đầy đủ dữ liệu về hồ sơ, thủ tục liên quan đến dịch vụ hành chính công, do đó, việc cung ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thực hiện chưa hiệu quả. Vì vậy, việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế liên thông hiện đại trong cung ứng dịch vụ hành chính công lại càng khó khăn.
Thứ năm, bất cập về đội ngũ công chức
Theo quy định hiện hành thì Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả ở UBND cấp huyện đặt tại Văn phòng HĐND và UBND, chịu sự quản lý toàn diện của Văn phòng HĐND và UBND. Tuy nhiên, biên chế công chức ở Bộ phận này ở nhiều địa phương là do công chức của phòng chuyên môn cử ra, do đó sự chỉ đạo, quản lý của Văn phòng HĐND và UBND gặp nhiều khó khăn.
Mặc khác, hiện nay “trong quá trình thực hiện mô hình một cửa, một cửa liên thông có hiện tượng người dân bị “ngâm” hồ sơ hành chính đến đăng ký ở bộ phận một cửa liên thông, kể cả đến phòng tiếp dân để đăng ký gặp lãnh đạo quận, huyện nhưng đều không được ghi phiếu hẹn. Cán bộ tiếp dân bảo cứ về chờ, thời hạn chờ không biết bao lâu mới được gặp lãnh đạo quận/huyện - gặp lãnh đạo khó quá”[27] . Bên cạnh đó, nhiều công chức ở Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả chưa có chuyên môn tốt nên vẫn còn tình trạng khi thực hiện dịch vụ hành chính công, công chức vẫn hướng dẫn người dân chưa đầy đủ, rõ ràng khiến người dân phải đi lại nhiều lần, mất nhiều thời gian trong việc bổ sung, hoàn thiện hồ sơ, đặc biệt là dịch vụ hành chính công trong lĩnh vực đất đai: “hiện tượng cán bộ nhũng nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính còn diễn ra ở một số địa phương, một số nơi chưa quan tâm, bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức để tiếp nhận giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến đất đai”[28].
3. Kiến nghị
Để tiếp tục thực hiện hiệu quả việc cung ứng dịch vụ hành chính công theo cơ chế một cửa liên thông tại cấp huyện, chúng tôi có một số kiến nghị:
Một là, hoàn thiện những quy định pháp luật về thủ tục hành chính liên quan đến dịch vụ hành chính công và những quy định về cơ chế một cửa liên thông tại cấp huyện
Tiến hành rà soát và hoàn thiện các quy định pháp luật về dịch vụ hành chính công tại cấp huyện, trước hết là sửa đổi, thống nhất những quy định của pháp luật về thực hiện thủ tục hành chính tại cấp huyện như đất đai, đăng ký kinh doanh,… và những quy định về cơ chế một cửa liên thông. Tổ chức và công dân khi có nhu cầu về dịch vụ hành chính công ở cấp huyện thì chỉ đến nộp hồ sơ tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện. UBND cấp huyện chỉ thành lập một Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả duy nhất thuộc Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện. Theo đó, Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả cấp huyện được tổ chức tại Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện để tiếp nhận hồ sơ, thủ tục hành chính thuộc các lĩnh vực cho tổ chức, công dân; không thành lập Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả tại các phòng, ban chuyên môn. Bởi nếu tổ chức mô hình Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả tại các phòng, ban chuyên môn của cấp huyện sẽ phải có nhiều Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả, tại đây cũng phải bố trí công chức để hướng dẫn và tiếp nhận hồ sơ thủ tục hành chính, phải thực hiện công khai thủ tục hành chính, biểu mẫu, giấy tờ, hồ sơ cho công dân“trong điều kiện về trụ sở, diện tích phòng làm việc hiện nay ở cấp huyện thì việc bố trí 12 Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả sẽ rất khó khăn, khó bảo đảm đủ điều kiện để bộ phận này làm việc có hiệu quả (bố trí chỗ ngồi của công chức, chỗ ngồi chờ của dân, chỗ để niêm yết công khai thủ tục hành chính…)[29].
Bên cạnh đó, kịp thời sửa đổi, cập nhật các thủ tục hành chính về dịch vụ hành chính công tại cấp huyện vào cơ sở dữ liệu của các địa phương cũng như thường xuyên cập nhật các thủ tục hành chính đã được niêm yết.
Hai, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng cổng thông tin điện tử (trang thông tin điện tử) cho các cơ quan nhà nước cấp huyện
Hiện nay, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có cổng thông tin điện tử, nhưng cấp huyện nhiều nơi vẫn chưa có. Vì vậy, trong thời gian tới, cấp huyện của những địa phương chưa có cổng thông tin điện tử (trang thông tin điện tử) phải tiến hành xây dựng cổng thông tin điện tử (trang thông tin điện tử), những nơi đã xây dựng thì tiếp tục nâng cấp và hoàn thiện. Khi xây dựng cho cấp huyện, các địa phương cần lưu ý cách đặt tên miền phải theo đúng quy định của Chính phủ: “Đối với UBND cấp huyện là tên miền cấp 4 sử dụng tên đầy đủ của địa phương bằng tiếng Việt không dấu theo dạng: tenquanhuyen.tentinhthanh.gov.vn[30] vì một số địa phương có cách đặt tên miền của UBND cấp huyện chưa đúng theo quy định[31]; đồng thời cổng thông tin điện tử (trang thông tin điện tử) này phải được liên kết với cổng thông tin điện tử của UBND cấp tỉnh[32].
Để thực hiện điều này, UBND cấp tỉnh cần chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát những quy định hiện hành về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước để làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai xây dựng cổng thông tin điện tử cấp huyện. Đồng thời, UBND cấp tỉnh cần ban hành Quyết định phê duyệt danh mục dự án ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan nhà nước trong đó xác định dự án trọng tâm là xây dựng và nâng cấp cổng thông tin điện tử cấp huyện[33].
Ba, nhanh chóng triển khai nhân rộng cơ chế một cửa liên thông hiện đại (một cửa liên thông điện tử) tại cấp huyện
Bộ Nội vụ cho biết, hiện nay có 42/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã triển khai cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông hiện đại tại UBND cấp huyện, trong đó có 9 địa phương thực hiện ở tất cả các huyện là: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh (không tính các huyện đảo của Hải Phòng và Đà Nẵng)[34], tính chung cả nước hiện có 203/700 đơn vị hành chính cấp huyện đang triển khai cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông hiện đại. Cơ chế một cửa liên thông hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cung ứng dịch hành chính công, tuy nhiên mới chỉ có 203/700 đơn vị cấp huyện thực hiện, vẫn còn 21 tỉnh chưa triển khai cơ chế này. Vì vậy, các địa phương còn lại phải tiến hành triển khai có hiệu quả cơ chế này. Để triển khai thì cần có hướng dẫn thống nhất của Chính phủ, Bộ Nội vụ[35].
Mặt khác, để thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa liên thông hiện đại tại cấp huyện cần đầu tư cải tạo, nâng cấp phòng làm việc của Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả thuộc Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện “được trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị điện tử hiện đại và áp dụng phần mềm điện tử nhằm tin học hóa tất cả các giao dịch hành chính giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan hành chính nhà nước và giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau trong việc công khai, hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, giải quyết đến trả kết quả cho cá nhân, tổ chức theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên tất cả các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương”[36]. Do đó, phải đặc biệt đầu tư cho Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả theo hướng nâng cấp và bổ sung các phương tiện làm việc của cán bộ, công chức, bố trí hệ thống camera kiểm soát, trang bị đầy đủ máy photo; máy tính có nối mạng, bảng điện tử tra cứu, hướng dẫn thủ tục hồ sơ, hệ thống quét mã vạch kiểm tra kết quả giải quyết hồ sơ, đẩy mạnh việc sử dụng các phần mềm chuẩn hoá theo quy trình ISO 9001:2008.
Bốn là, xây dựng cơ chế biệt phái công chức từ các phòng chuyên môn đến công tác tại Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức
Mặc dù quy định Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả hoạt động dưới sự chỉ đạo của Văn phòng HĐND và UBND, nhưng các công chức ở Bộ phận này thường do Phòng chuyên môn cử ra, do đó sự chỉ đạo, quản lý của Văn phòng HĐND và UBND gặp nhiều khó khăn. Do đó, nên quy định những công chức ở phòng chuyên môn được cử ra làm việc tại Bộ phận này phải theo cơ chế biệt phái của Luật Cán bộ, công chức vì “công chức biệt phái phải chấp hành phân công công tác của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi được cử đến biệt phái”[37].Như vậy, Chánh Văn phòng hoặc Phó Chánh Văn phòng HĐND và UBND huyện phụ trách Bộ phận này sẽ dễ dàng chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cho những công chức được biệt phái từ các Phòng chuyên môn.
Ngoài ra, phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chức trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ hành chính công. Tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ là nhiệm vụ quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc cung ứng dịch vụ hành chính công. Vì vậy, phải thường xuyên xây dựng, tổ chức triển khai các lớp tập huấn nhằm trang bị, nâng cao kiến thức, kỹ năng về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng giao tiếp cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp quản lý, làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. Bên cạnh các chương trình, kế hoạch đào tạo chung của cấp trên đề ra, UBND cấp huyện có thể phối hợp với các đơn vị đào tạo, bồi dưỡng mở các lớp tập huấn về công tác cải cách hành chính, kỹ năng giao tiếp, nghiệp vụ triển khai các quy trình giải quyết thủ tục hành chính trên các lĩnh vực…
Dịch vụ hành chính công cấp huyện gắn liền với chức năng quản lý nhà nước của UBND cấp huyện. Tuy nhiên, để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, đòi hỏi các cơ quan nhà nước nói chung, tại cấp huyện nói riêng phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp từ việc rà soát, sửa đổi thủ tục hành chính, cho đến việc tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện các công việc như: công khai thủ tục hành chính về dịch vụ hành chính công, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cung ứng dịch vụ hành chính công tiến tới việc cung ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến theo cơ chế một cửa liên thông hiện đại…/.

 


[1]Nghị quyết còn yêu cầu “tiến hành từng bước việc phân định rõ biên chế trong bộ máy hành chính với biên chế trong các đơn vị sự nghiệp, kinh tế, dịch vụ công; thí điểm việc xã hội hoá một số lĩnh vực dịch vụ, y tế, giáo dục, khoa học và hoạt động văn hoá, thể thao… trước hết là ở các thành phố và các khu công nghiệp”.
[2]Chu Văn Thành, Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004, tr 15.
[3] PGS, TS Lê Chi Mai dùng cách gọi “dịch vụ xã hội” để chỉ “dịch vụ sự nghiệp công”, xem Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr 27, 34.
[4]Lê Chi Mai, sđd, tr 60.
[5] Theo PGS, TS. Lê Chi Mai thì khái niệm dịch vụ hành chính công được sử dụng ở một số nước mà sự quản lý của nhà nước đối với thị trường khá chặt chẽ.
[6]Lê Chi Mai, Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, sđd, tr 61.
[7] Chu Văn Thành, Dịch vụ công - Đổi mới quản lý và tổ chúc cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, 2007, tr 55.
[8] Ví dụ như việc thực hiện công chứng văn bản, giấy tờ bên cạnh Phòng Công chứng thuộc Sở Tư pháp thực hiện thì Nhà nước còn cho phép Văn phòng Công chứng (là loại hình doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của Luật Công chứng.
[9]Xem khoản 6 Điều 3 Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ và khoản 1 Điều 3 Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT ngày 31/7/2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông.
[10]Xem khoản 3 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ.
[11] Cần lưu ý rằng không phải mọi dịch vụ hành chính công đều có thu phí hoặc lệ phí, mà có những dịch vụ hành chính công do Nhà nước cung ứng cho người dân nhưng người dân không phải trả bất kỳ phí, lệ phí nào. Việc thu phí và lệ phí phải tuân thủ đúng quy định của Nhà nước về phí và lệ phí.
[12] Văn phòng UBND đối với những nơi thí điểm không tổ chức HĐND.
[13] Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ.
[14] Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/5/2014 quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai năm 2013. Nghị định này vẫn quy định tại cấp huyện Phòng Tài nguyên và Môi trường là cơ quan tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả.
[15] Xem khoản 1 Điều 11 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ.
[16] Nghị định này được sửa đổi bởi Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/ 01/ 2012 và Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ.
[17] Một số địa phương có quan điểm rằng, theo nguyên tắc hiệu lực pháp lý của văn bản thì quyết định của Thủ tướng Chính phủ là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn nghị định của Chính phủ nên khi cung ứng dịch vụ hành chính công trong các lĩnh vực đất đai, đăng ký kinh doanh… thì địa phương vẫn có thể quy định tổ chức và công dân nộp hồ sơ trực tiếp tại phòng chuyên môn.
[18] Điểm b khoản 1 Điều 8 Quyết định 93/2007/QĐ-TTg quy định: “Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở UBND cấp huyện đặt tại Văn phòng HĐND và UBND, chịu sự quản lý toàn diện của Văn phòng HĐND và UBND”.
[19] Khoản 9 Điều 18 Nghị định này quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức phải thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong thực hiện thủ tục hành chính, tức là chỉ được quy định công dân, tổ chức nộp hồ sơ và nhận kết quả tại một nơi duy nhất là Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả.
[20]Tiết c khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ xác định “thực hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng HĐND và UBND cấp huyện”.
[21] Trang thông tin điện tử Cơ sở dữ liệu quốc gia về Thủ tục hành chính: www.thutuchanhchinh.vn
[22] Ví dụ, trước đây dịch vụ cấp phép kinh doanh bán lẻ hoặc đại lý bán lẻ rượu thực hiện theo Nghị định số 40/2008/NĐ-CP ngày 07/4/ 2008 của Chính phủ và hướng dẫn của Thông tư số 10/2008/TT-BCT ngày 25/7/2008 của Bộ Công thương, tuy nhiên, kể từ ngày 01/01/2013 Nghị định số 40/2008/NĐ-CP đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Nghị định 94/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ và Thông tư số 10/2008/TT-BCT được thay thế bằng Thông tư số 39/2012/TT-BCT ngày 20/12/2012 nhưng cấp huyện nhiều địa phương vẫn không cập nhật thay đổi này vào Bộ thủ tục hành chính được công bố.
[23]Số liệu do chúng tôi tổng hợp từ báo cáo của Bộ Nội vụ.
[24] Báo cáo số 1459/BC-BNV ngày 27/4/2011 của Bộ Nội vụ.
[25]Ví dụ kết quả khảo sát của chúng tôi trên Cổng thông tin điện tử của 19 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở phía Nam (6 tỉnh Đông Nam Bộ, 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long) cho thấy nhiều huyện của một số tỉnh vẫn chưa có website như: huyện Bắc Tân Uyên, Bàu Bàng của Bình Dương; huyện Châu Thành, Đức Huệ, Mộc Hóa, Tân Hưng, Tân Thạnh, Tân Trụ, Vĩnh Hưng, Đức Hòa của tỉnh Long An; các huyện Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre; các huyện An Biên, An Minh, Châu Thành, Giang Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, Hòn Đất, U Minh Thượng, Kiên Lương, Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Kiên Hải của tỉnh Kiên Giang...
[26] Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ bảo đảm cung cấp đầy đủ các thông tin về thủ tục hành chính và các văn bản có liên quan quy định về thủ tục hành chính đó.
 Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
 Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
 Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người sử dụng.
[27] Phạm Quang Huy, Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm năm 2013, Đánh giá cải cách hành chính của UBND quận, huyện tại TP. Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính Quốc gia.
[28]Thông báo số 347/TB-VPCP ngày 28/7/2014 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại cuộc họp đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai.
[29]Báo cáo số 1459/BC-BNV ngày 27/4/2011 của Bộ Nội vụ về tổng kết, đánh giá việc thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007
[30] Điểm c khoản 1 Điều 6 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011.
[31] Ví dụ cổng thông tin điện tử của UBND một số huyện tỉnh Long An như sau:
huyện Thủ Thừa http://www.longan.gov.vn/chinhquyen/htthua,
huyện Cần Giuộc: http://www.longan.gov.vn/chinhquyen/hcgiuoc
[32] Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, trên cổng thông tin của một số tỉnh vẫn không có liên kết đến cổng thông tin điện tử (trang thông tin điện tử) cấp huyện như tỉnh Hậu Giang, tỉnh Vĩnh Long…
[33]Thông báo số 307/TB-VPCP ngày 01/8/2014 của Văn phòng Chính phủ cho biết, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giao Văn phòng Chính phủ chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức xây dựng hệ thống cổng thông tin điện tử thống nhất thông suốt 4 cấp hành chính từ trung ương đến địa phương.
[34] Thông báo số 415/TB-VPCP ngày 20/12/2012 của Văn phòng Chính phủ.
[35] Hiện nay Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ Đề án Hỗ trợ nhân rộng triển khai cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông hiện đại tại UBND cấp huyện giai đoạn 2014 - 2016. Việc thông qua Đề án sẽ là cơ sở quan trọng để các địa phương triển khai thực hiện.
[36] Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thay thế Quyết định 93/2007/QĐ-TTg.
[37] Khoản 3 Điều 53 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1(281), tháng 1/2015)


Thống kê truy cập

33950077

Tổng truy cập