Cải cách hệ thống pháp luật tài sản thoả mãn tiêu chí hội nhập thông qua việc sửa đổi Bộ luật Dân sự

01/02/2014

PGS.TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN

Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Một trong những nhiệm vụ chính của Bộ luật Dân sự (BLDS) là làm rõ bản chất và nội dung các quyền của chủ thể đối với tài sản. Nhà làm luật ở Việt Nam cũng nhận thức được điều này và đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong quá trình xây dựng, sửa đổi BLDS Việt Nam để BLDS được hoàn thiện xét theo tiêu chí làm tròn nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực ấy, BLDS năm 2005 vẫn bị đánh giá là có quá nhiều khiếm khuyết về phần liên quan đến các quyền đối với tài sản, cần được sửa đổi, bổ sung.  
Untitled_417.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Đặt vấn đề
Một trong những nhiệm vụ chính của Bộ luật Dân sự (BLDS) là làm rõ bản chất và nội dung các quyền của chủ thể đối với tài sản. Nhà làm luật ở Việt Nam cũng nhận thức được điều này và đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong quá trình xây dựng, sửa đổi BLDS Việt Nam để BLDS được hoàn thiện xét theo tiêu chí làm tròn nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực ấy, BLDS năm 2005 vẫn bị đánh giá là có quá nhiều khiếm khuyết về phần liên quan đến các quyền đối với tài sản, cần được sửa đổi, bổ sung.     
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế này là thiếu sót trong việc xây dựng cơ sở lý luận nhất quán của chế độ pháp lý về tài sản. Thật ra, rất khó xác định nền tảng học thuyết của các quy tắc liên quan trong BLDS hiện hành. Đọc các điều luật trong phần “Tài sản và quyền sở hữu” của Bộ luật, dễ có cảm giác đang được nghe kể một câu chuyện về các đồ vật có giá trị tiền tệ, cùng với những mối quan hệ giữa người và người xoay quanh các đồ vật ấy theo kiểu “thấy sao nói vậy”. Chính việc thiếu chất liệu học thuyết có tác dụng kết dính đã khiến người làm luật không thể dùng pháp luật tài sản như là ngọn đèn soi sáng, cho phép làm rõ và giải quyết thấu đáo các vấn đề đặt ra khi xây dựng, hoàn thiện các chế định khác của pháp luật dân sự, như địa dịch, hợp đồng, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,…   
Trong khuôn khổ công việc sửa đổi BLDS năm 2005, nhiều ý kiến cho rằng nên áp dụng các thành tựu lý thuyết vật quyền được xây dựng trong luật của Đức và Pháp để cấu trúc lại chế độ pháp lý về tài sản. Việc biên soạn Dự thảo sửa đổi BLDS được thực hiện nhưng cũng có không ít ý kiến nghi ngại về khả năng gây sốc đối với xã hội một khi hàng loạt những khái niệm, thuật ngữ mới, lạ được đưa vào luật thay cho những thứ đã quen.  
Dẫu sao, việc cải tổ chế độ pháp lý về tài sản là điều cần thiết để vừa đưa pháp luật tài sản và nói chung là pháp luật dân sự Việt Nam tiệm cận với các hệ thống pháp luật tiên tiến, vừa cải thiện tính khả thi của luật như là công cụ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, cần thừa nhận rằng Việt Nam không phải là một nước có truyền thống lâu đời về khoa học luật và chưa đủ sức tự mình xây dựng học thuyết riêng, đặc thù làm nền cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật. Trong điều kiện đó, việc tìm kiếm một mô hình đã có sẵn và đang vận hành tốt để vận dụng vào hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam là giải pháp tốt nhất.
Ở góc độ pháp luật tài sản, có hai mô hình tiêu biểu: La Mã - Đức (Romano-Germanic) và Anh - Mỹ (Anglo-American). Sự lựa chọn mô hình La Mã - Đức, đặc trưng bởi việc áp dụng lý thuyết vật quyền trong việc xây dựng chế độ pháp lý về tài sản tỏ ra phù hợp với Việt Nam. 
Ngoài ra, cần phải sửa một trong những sai lầm liên quan đến chế định chiếm hữu. Đây thực sự là một lỗi kỹ thuật cơ bản, không chỉ khiến cho pháp luật tài sản của Việt Nam khó hiểu và khó áp dụng trong thực tiễn, mà còn làm cho luật Việt Nam có nguy cơ bị lạc lối, mất phương hướng trong quá trình phát triển, hoàn thiện.    
2. Áp dụng lý thuyết vật quyền  
2.1. Lý lẽ của việc lựa chọn
Lịch sử và sự tương đồng. Trong thời kỳ thuộc địa, pháp luật dân sự Việt Nam được người Pháp xây dựng theo khuôn mẫu latinh. Lý thuyết vật quyền và những ứng dụng của lý thuyết đó đã là chất liệu cấu tạo chế độ pháp lý về tài sản trong các Bộ Dân luật Bắc, Trung. Bởi vậy, người Việt Nam không xa lạ với những quan niệm đại loại như quyền sở hữu là quyền trực tiếp trên tài sản và mang tính tuyệt đối, độc quyền[1]; quyền thuê đất dài hạn có tác dụng tạo ra quyền sở hữu của người thuê đối với tài sản tạo lập trên đất thuê[2]; địa dịch là quan hệ giữa hai bất động sản trong đó có một bất động sản hưởng dịch và một bất động sản chịu địa dịch;…
Pháp luật XHCN không chính thức kế thừa pháp luật của chế độ cũ; bởi vậy, những thành tựu của luật pháp và nói chung luật học thời cũ không có điều kiện được ghi nhận và phát huy trong luật viết hiện hành. Tuy nhiên, những quan niệm đã quen thuộc, chuẩn mực ứng xử đã thành nếp vẫn tiếp tục được duy trì trong tư tưởng, cuộc sống hàng ngày của người dân thường, trong chừng mực nào đó, được coi là một phần của tục lệ. Các giá trị gắn với lý thuyết vật quyền không phải là ngoại lệ.
Vận dụng lý thuyết này vào luật Việt Nam trong việc sửa đổi BLDS có thể làm xuất hiện những thuật ngữ mới lạ gây khó khăn cho việc tiếp cận, nắm bắt nội dung của Luật. Tuy nhiên, đây chỉ là khó khăn tạm thời, vì sau một thời gian, mọi người sẽ quen, như đã từng quen trong thời kỳ thuộc địa, sau một thời gian tiếp cận với các khái niệm, thuật ngữ mới lạ của luật phương Tây được du nhập vào Việt Nam.  
Vả lại, chế định cơ bản của pháp luật tài sản - quyền sở hữu, được xây dựng trong luật thực định Việt Nam, mang đầy đủ các yếu tố đặc trưng của vật quyền được thừa nhận trong luật của Đức, Pháp,… Điều đó cho phép tin rằng, việc áp dụng lý thuyết vật quyền không dẫn đến những xáo trộn lớn trong việc tái cấu trúc hệ thống pháp luật tài sản.    
2.2. Lợi ích
Xây dựng hệ thống vật quyền
Dựa vào đặc tính chung cơ bản của các quyền. Vật quyền được hiểu là quyền được thực hiện trực tiếp trên vật. Người có vật quyền thực hiện quyền của mình mà không cần sự hợp tác, hỗ trợ của người khác, kể cả người đang nắm giữ tài sản. Tất cả mọi người, kể cả người đang nắm giữ tài sản với tư cách là chủ sở hữu, phải tôn trọng quyền của người có vật quyền đối với tài sản.
Dựa vào các yếu tố đặc trưng ấy, có thể nhận dạng các quyền gọi là vật quyền để xếp vào một nhóm. Một hệ thống vật quyền hình thành và phát triển từ đó.
Sự vận hành của hệ thống
Quan hệ giữa các vật quyền. Ở Pháp[3], học thuyết nói rằng nhóm các vật quyền có thể được phân chia thành hai tiểu nhóm: vật quyền chính và vật quyền phụ.  
Vật quyền chính bao gồm những quyền trực tiếp tác động lên bản thể vật lý của tài sản. Đứng đầu nhóm này là quyền sở hữu. Đây cũng là vật quyền chính đầy đủ, hoàn hảo nhất với tất cả các quyền năng cần thiết, tạo điều kiện cho người có quyền thu được tất cả những tiện ích do tài sản mang lại. Các quyền hưởng hoa lợi, quyền sở hữu bề mặt, quyền địa dịch,… là những ví dụ khác về vật quyền chính. Suy cho cùng, các vật quyền chính khác đều chỉ là những phần không trọn vẹn của quyền sở hữu. Về quan hệ sinh thành, có thể hình dung quyền sở hữu như quyền cơ sở, ban đầu; các vật quyền chính khác được tạo ra bằng cách trích một phần nội dung của quyền sở hữu và trở thành một quyền độc lập. Chẳng hạn, quyền hưởng dụng (usufruct) là quyền thu hoa lợi (fructus) của chủ sở hữu được chuyển giao cho người khác và người thụ hưởng có quyền trực tiếp khai thác tài sản để thu hoa lợi mà không cần xin phép chủ sở hữu, cũng không cần sự hỗ trợ, hợp tác của người này. Địa dịch (servitude) là một phần nội dung của quyền sử dụng (usus).
Tách ra từ quyền sở hữu để trở thành một quyền độc lập, các vật quyền chính không phải là quyền sở hữu đều có tính tạm thời: đến lúc nào đó, các quyền này phải biến mất hoặc gia nhập trở lại vào quyền sở hữu. Nếu không thừa nhận điều này, thì quyền sở hữu sẽ không giữ được các thuộc tính của nó - độc nhất, tuyệt đối và lâu dài.  
Vật quyền phụ bao gồm những quyền cho phép người có quyền tác động không phải vào bản thể của tài sản mà vào giá trị kinh tế của tài sản. Các vật quyền này hình thành từ các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản, như cầm cố, thế chấp. Tính chất phụ trợ được ghi nhận, do tính hỗ trợ của vật quyền này đối với việc thu hồi nợ của chủ nợ có bảo đảm: trong trường hợp nợ không được trả, chủ nợ có thể xử lý tài sản bảo đảm bằng cách tổ chức kê biên và bán, rồi nhận tiền thanh toán trước các chủ nợ khác của người mắc nợ. Chủ nợ có bảo đảm được phép thực hiện quyền này, bất kể tài sản bảo đảm đang nằm trong tay ai và không ai được quyền ngăn cản.
Được coi là một cách tiếp cận khác đối với tài sản, vật quyền phụ có thể xung đột với vật quyền sở hữu và các vật quyền chính khác. Chẳng hạn, trong trường hợp nợ có bảo đảm không được trả, thì chủ nợ có vật quyền bảo đảm thực hiện quyền đòi nợ của mình bằng cách xử lý tài sản; khi đó, chủ sở hữu có nguy cơ mất quyền sở hữu về tay người khác. Trong một tình huống khác, chủ sở hữu một tài sản được thế chấp, do không mất quyền sở hữu trong thời gian thế chấp, có thể khai thác tài sản, ví dụ, bằng cách cho thuê và việc làm này khiến tài sản có nguy cơ bị giảm sút giá trị kinh tế. Giải quyết một cách thấu đáo các xung đột ấy cũng có nghĩa là làm cho hoàn thiện các chế định vật quyền có liên quan[4].        
Tạo ra vật quyền mới bằng thoả thuận?
Vật quyền ảo. Vấn đề đặt ra là liệu có thể tạo ra một vật quyền trên cơ sở hợp đồng giữa các bên trong cuộc sống dân sự, bên cạnh các vật quyền được pháp luật quy định. Về mặt lý thuyết, một quyền mang đầy đủ các đặc tính của vật quyền thì sẽ được gọi là vật quyền. Bởi vậy, nếu các bên đạt được một thoả thuận về việc tạo ra một quyền không giống bất kỳ vật quyền nào được luật quy định, nhưng có đủ các tính chất của vật quyền, thì sẽ có một vật quyền mới xuất hiện.
Tuy nhiên, có một trở ngại hầu như không thể vượt qua để điều đó thành hiện thực. Đó là sự tôn trọng của tất cả mọi người đối với quyền được tạo ra. Đây cũng là điều kiện gắn với một trong những tính chất cơ bản của vật quyền - tính có hiệu lực đối với tất cả mọi người (erga omnes). Chắc chắn, các bên không thể dùng một thoả thuận riêng giữa họ để tạo ra một quyền có tác dụng hạn chế quyền của người khác. Chỉ có Nhà nước mới có quyền dùng luật pháp để áp đặt cách ứng xử đối với người này, người nọ. Các bên vẫn có quyền thoả thuận để tạo ra một quyền được thực hiện trực tiếp trên vật; nhưng thoả thuận này chỉ ràng buộc các bên giao kết, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba đối với vật đó. Rốt cuộc, đó chỉ là một thứ vật quyền ảo.      
3. Xây dựng quan niệm đúng đắn về chiếm hữu
3.1. Quyền chiếm hữu trong luật thực định
Sai lầm kỹ thuật. Quyền chiếm hữu được ghi nhận trong BLDS năm 2005 (và cả trong BLDS năm 1995) như là một phần nội dung của quyền sở hữu, cùng với quyền sử dụng và quyền định đoạt. Đây được cho là kết quả của việc vận dụng luật của Liên Xô (cũ). Điều này tạo ra sự khác biệt lớn giữa luật Việt Nam và luật của các nước chịu ảnh hưởng văn hoá pháp lý Latinh. Chẳng hạn, luật của Pháp, Đức nói rằng quyền sở hữu bao gồm các thành phần: quyền sử dụng (usus), quyền thu hoa lợi (fructus) và quyền định đoạt (abusus).
Người làm luật Việt Nam dựa vào nội dung của các quyền sử dụng và thu hoa lợi của các nước để xây dựng chế định quyền sử dụng; quyền định đoạt trong luật Việt Nam có những nét cơ bản tương đồng với quyền định đoạt trong luật của các nước. Còn lại quyền chiếm hữu phải có nội dung. Do không có được giải pháp tương tự trong luật của các nước để tham khảo, người làm luật Việt Nam đã lấy lại chế định quyền chiếm hữu trong luật của Liên Xô. Trong chừng mực nào đó, chế định này được coi là kết quả của sự pha trộn giữa chế định chiếm hữu trong luật của các nước và những ghi nhận theo phương pháp kinh viện về việc nắm giữ tài sản diễn ra trên thực tế của cuộc sống hàng ngày. Quyền chiếm hữu trong luật Việt Nam trở thành cái gì đó rất đặc thù và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn đã khiến người nắm giữ tài sản, trong nhiều trường hợp, bị đẩy vào tình trạng gặp rắc rối không đáng có.       
3.2. Quan niệm về chiếm hữu trong luật của các nước
Quan hệ thực tế. Dù có rất nhiều khác biệt trong việc xác định cách đặt và giải quyết vấn đề liên quan đến xây dựng học thuyết, cả luật học Anh - Mỹ và luật học Latinh đều nhìn nhận chiếm hữu là một quan hệ thực tế giữa người và vật, khác với quan hệ sở hữu được xem xét trong khuôn khổ tranh chấp pháp lý trước toà án về quyền sở hữu đối với tài sản[5]. Một người được gọi là người chiếm hữu một tài sản một khi người đó nắm giữ tài sản trong tư thế và với thái độ của người có quyền đối với tài sản; vấn đề liệu người đó thực sự có hay không có quyền đối với tài sản không (cần) được đặt ra.  
Thậm chí, để có thể xây dựng, hoàn thiện chế định chiếm hữu như là một chế định độc lập, người ta không xuất phát từ ý tưởng cho rằng chiếm hữu là biểu hiện bề ngoài của quyền sở hữu. Lý do là trong điều kiện không ai đặt vấn đề một cách nghiêm túc người nào thực sự là chủ sở hữu đối với tài sản, thì nhà chức trách cũng không nên xới vấn đề lên để làm cho câu chuyện trở nên rắc rối một cách không cần thiết. Một người bị giật túi xách có đựng một chiếc máy tính xách tay; kẻ cướp giật sau đó bị bắt cùng với tang vật. Khi nạn nhân đến nhận lại tài sản, yêu cầu số một đối với cơ quan tạm giữ tang vật là làm thế nào bảo đảm giao trả tài sản cho đúng người bị giật tài sản; nhà chức trách không cần tìm hiểu liệu người bị giật tài sản có đúng là chủ sở hữu tài sản đó hay không. Nói khác đi, trách nhiệm của nhà chức trách trong câu chuyện là khôi phục mối quan hệ xã hội giữa người và tài sản như trước khi xảy ra vụ cướp giật, không đi xa hơn[6]. Quan hệ đó gọi là quan hệ chiếm hữu.        
Quan hệ giữa chiếm hữu và quyền sở hữu. Độc lập nhưng không cô lập với quan hệ sở hữu, quan hệ chiếm hữu có thể tác động đến quan hệ sở hữu mỗi khi điều đó là cần thiết để bảo vệ trật tự công cộng, bảo đảm công bằng xã hội.
Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là chủ sở hữu và không phải chứng minh quyền sở hữu của mình; người nào cho rằng người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu, thì phải chứng minh điều mình nói. Nguyên tắc suy đoán có lợi cho người chiếm hữu xuất phát từ nhận định theo đó, trong đại đa số trường hợp, người chiếm hữu tài sản đồng thời cũng là chủ sở hữu đích thực[7]. Trong trường hợp người đi kiện không chứng minh được quyền sở hữu của mình và bị bác đơn kiện thì cũng không hẳn người chiếm hữu được chính thức thừa nhận là chủ sở hữu: nếu có người nào đó khác muốn tranh chấp, thì cứ tiến hành tranh chấp; khi đó, nguyên tắc suy đoán có lợi cho người chiếm hữu lại được áp dụng.
Giả sử sau một vụ tranh chấp, quyền sở hữu được thừa nhận cho nguyên đơn. Khi đó, người chiếm hữu phải giao trả tài sản cùng với hoa lợi, lợi tức cho người được toà án công nhận là chủ sở hữu. Tuy nhiên, người chiếm hữu ngay tình không phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được: đó phải được coi là kết quả công sức của người tin tưởng một cách chính đáng về quyền của mình đối với tài sản trong thời gian nắm giữ, khai thác tài sản đó.
Đặc biệt, việc chiếm hữu được thực hiện công khai, liên tục trong một thời gian đủ dài sẽ giúp xoá nhoà ranh giới giữa quan hệ chiếm hữu và quyền sở hữu, đi đến chỗ làm biến mất sự phân biệt giữa quan hệ chiếm hữu và quyền sở hữu. Nếu người chiếm hữu không phải là chủ sở hữu đích thực thì việc xoá bỏ ranh giới phân biệt đó có tác dụng chính thức thừa nhận tư cách chủ sở hữu cho người chiếm hữu. Luật gọi đó là việc xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho người chiếm hữu.
3.3. Hoàn thiện Dự thảo sửa đổi BLDS: nên bỏ hẳn sự thừa nhận quyền chiếm hữu như là một phần nội dung của quyền sở hữu
Nguy cơ lẫn lộn giữa chiếm hữu và quyền chiếm hữu trong Dự thảo sửa đổi[8]. Trong quá trình sửa đổi BLDS, chiếm hữu đã được thừa nhận là một quan hệ thực tế như trong luật của các nước. Tuy nhiên, nhiều ý kiến vẫn cho rằng nên giữ nguyên nội dung của quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu như lâu nay, để tránh xáo trộn, gây ngạc nhiên. Hậu quả là trong Dự thảo BLDS, thuật ngữ chiếm hữu được dùng trong hai ngữ cảnh khác nhau, dẫn đến nguy cơ nhầm lẫn.
Mà suy cho cùng, sự nhầm lẫn là không thể tránh khỏi. Lý do là để xây dựng chế định quyền chiếm hữu, người ta không thể dựa vào kinh nghiệm tốt của nước ngoài, bởi đơn giản, không có luật nước (tiên tiến) nào nói rằng quyền chiếm hữu là một trong những nội dung của quyền sở hữu. Kinh nghiệm của bản thân thì không thể được tạo ra và tích tụ một cách hữu ích trong ngày một ngày hai, mà cần có thời gian. Một cách logic, để có được một chế định quyền chiếm hữu trong khung cảnh thiếu thốn chất liệu học thuyết, chỉ còn mỗi con đường là lấy lại nội dung của chế định chiếm hữu trong luật của các nước, rồi nhào nặn, chế biến thành quyền chiếm hữu như là một trong ba quyền của chủ sở hữu được thừa nhận trong luật Việt Nam. Đó là cách làm được lựa chọn trong quá trình xây dựng BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, được cho là có xuất xứ từ Liên Xô, như đã nêu ở trên. Quyền chiếm hữu trong luật thực định Việt Nam được nhìn nhận như là một phần nội dung của quyền sở hữu; nhưng quyền chiếm hữu lại có thể làm phát sinh hiệu lực như quan hệ chiếm hữu thực tế. Điển hình là quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức của người chiếm hữu ngay tình, quyền sở hữu được xác lập theo thời hiệu.    
Đáng chú ý trong những sản phẩm được tạo ra từ việc nhào nặn, chế biến các thành tựu của luật nước ngoài, là khái niệm “chiếm hữu có căn cứ pháp luật”[9]. Chiếm hữu trong luật thực định phải có nguồn gốc pháp lý được xác định; hơn nữa, nguồn gốc chiếm hữu phải hợp pháp, thì chiếm hữu mới được thừa nhận và bảo vệ một khi việc chiếm hữu bị xâm hại, quấy nhiễu. Tuy nhiên, thế nào là nguồn gốc hợp pháp thì luật lại không làm rõ. Trong thực tiễn, người ta thường dừng lại một khi người chiếm hữu xuất trình được bằng chứng gì đó, do tự cảm thấy hài lòng với bằng chứng đó và yên tâm cho rằng việc chiếm hữu là có căn cứ pháp luật. Chẳng hạn, người thuê nhà xuất trình hợp đồng thuê nhà hợp lệ sẽ được coi là người chiếm hữu hợp pháp. Thật ra, đến lúc đó người ta vẫn chưa biết chắc liệu người chiếm hữu có thực sự chiếm hữu có căn cứ pháp luật hay không, bởi vấn đề tư cách của bên cho thuê vẫn chưa được giải quyết. Nhưng nếu đi tiếp, nghĩa là phải thẩm định tư cách của bên cho thuê, thì đến khi nào người ta mới có thể dừng lại để khẳng định chắc nịch rằng mọi thứ đều đã đúng luật, hợp pháp và do đó, việc chiếm hữu đang xem xét là có căn cứ pháp luật?
Vả lại, việc thừa nhận người chiếm hữu được suy đoán là chủ sở hữu, nói chung là người có thực quyền đối với tài sản, được ghi nhận trong Dự thảo sửa đổi BLDS, cũng khiến cho quy định về chiếm hữu có căn cứ pháp luật trở nên thừa, nếu không muốn nói là mâu thuẫn với sự suy đoán ấy. Với hiệu lực suy đoán, bản thân sự chiếm hữu, được bộc lộ ra bên ngoài thành các hành vi, thái độ cụ thể, đã là có căn cứ: người chiếm hữu không cần phải phân trần, lý giải về nguồn gốc pháp lý của việc chiếm hữu; còn ai cho rằng người chiếm hữu không có quyền thì phải chứng minh.      
Tóm lại, cần dũng cảm loại bỏ quyền chiếm hữu ra khỏi nội dung của quyền sở hữu, để có điều kiện xây dựng, hoàn thiện chế định chiếm hữu thoả mãn các tiêu chí khoa học và hội nhập./.
 
 

* PGS,TS. Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
[1] BLDS Bắc Điều 462, BLDS Trung Điều 476.
[2] BLDS Bắc Điều 1011, BLDS Trung Điều 1160.
[3]Xem, ví dụ, F. Terré, Droit civil. Les biens, Précis Dalloz (Paris), 2006, tr. 33 và 34; Ph. Malaurie và L. Aynès, Droit civil. Les biens. La publicité fonccière, Cujas (Paris), 1998, tr. 89.    
[4] Chẳng hạn, trong luật các nước, tài sản thế chấp vẫn có thể được chuyển nhượng trong thời gian thế chấp; nhưng, trong trường hợp nợ có bảo đảm không được trả, thì chủ nợ nhận thế chấp có quyền kê biên tài sản để xử lý nhằm thu hồi nợ mà không cần biết chủ sở hữu là ai. Muốn tránh gặp rắc rối do mua tài sản thế chấp, người muốn mua phải tham khảo sổ đăng ký tài sản để biết tình trạng pháp lý của tài sản. Một khi đã biết tài sản đang được thế chấp mà vẫn chấp nhận mua, thì người mua phải chịu rủi ro. Có thể xem, trong luật của Pháp: Ph. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil. Les suretés. La publicité foncière, Dalloz, Paris, 2009, tr. 433 và 434..   
Việc cho thuê tài sản trong ngắn hạn có thể không khiến tài sản bị giảm sút giá trị kinh tế; trong khi việc cho thuê dài hạn đối với tài sản có thể khiến tài sản trở nên khó bán hoặc ít nhất là khó bán được với giá cao. Bởi vậy, luật các nước thường đòi hỏi chủ sở hữu muốn cho thuê dài hạn đối với tài sản thế chấp phải được sự đồng ý của chủ nợ nhận thế chấp. Xem, ví dụ, trong luật của Pháp: PH. Simler và Ph. Delebecque, Droit civil – Les suretés. La publicité foncière, đã dẫn, tr. 434 và 435..       
[5] Liên quan đến luật của Anh, tham khảo: F.H. Lawson và B. Rudden, The Law of Property, Clarendon Press, Oxford (London), 1982, tr. 41 và kế tiếp. Liên quan đến luật của Pháp, xem: PH. Malaurie và L. Aynès, sđd, tr. 136 và kế tiếp; F. Terré, sđd, tr. 101 và kế tiếp. 
[6] Do coi chiếm hữu là một phần nội dung của quyền sở hữu, nhà chức trách ở Việt Nam trong trường hợp này đã đi xa hơn: thông thường, người ta sẽ yêu cầu người bị cướp xuất trình bằng chứng cho thấy mình có quyền sở hữu đối với tài sản bị cướp hoặc ít nhất là người “chiếm hữu có căn cứ pháp luật”. Nếu không chứng minh một cách thoả đáng, người bị cướp khó lòng nhận lại được tài sản. Trong khi đó, ở các nước, nhà chức trách chỉ yêu cầu người đến nhận tài sản chứng minh rằng mình chính là nạn nhân trong vụ cướp, là xong. 
[7] Nếu điều này không đúng, đặc biệt là nếu đa số người chiếm hữu đều là người chiếm đoạt tài sản trái phép, thì xã hội đúng là loạn.
[8] Dự thảo chúng tôi sử dụng trong bài viết là Dự thảo BLDS sửa đổi công bố ngày 12/8/2014.
[9] BLDS năm 2005 Điều 183. Khái niệm này tiếp tục được sử dụng trong các Dự thảo sửa đổi BLDS được cập nhật đến nay. 

(Nguồn tin: Bài viết đăng trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 3+4 (283+284) , tháng 2/2015)