Hoạt động lập pháp của Quốc hội trong thời gian qua và định hướng tiếp tục đổi mới trong thời gian tới

01/02/2015

PGS.TS. HOÀNG VĂN TÚ

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp

Lập pháp là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội và là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước - quyền lập pháp. Hoạt động lập pháp là hoạt động mang tính sáng tạo, là quá trình nhận thức các quy luật xã hội, đặc biệt là vấn đề lợi ích, xác định tầm quan trọng của các quan hệ xã hội, từ đó xác định phạm vi và phương pháp điều chỉnh đúng đắn đối với chúng. Bài viết trình bày hoạt động lập pháp của Quốc hội thời gian qua và những định hướng tiếp tục đổi mới trong thời gian tới. 
Untitled_260.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
1. Quan điểm của Đảng ta về đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội
Trong những năm qua, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp. Các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 2 và Nghị quyết 8 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII “về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” và các báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương trình Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X, XI đã xác lập quan điểm cơ bản làm cơ sở quan trọng để đẩy mạnh hoạt động lập pháp của Quốc hội; phấn đấu trong những năm tới dần dần có đủ các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm định hướng XHCN, dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, nhưng không sao chép rập khuôn.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đề ra mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực thi pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, mở rộng hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa vào năm 2020.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra nhiều chủ trương lớn với một hệ thống các giải pháp đồng bộ và giải pháp đột phá nhằm vừa giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài vì mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, công bằng, phụng sự công lý, phục vụ tổ quốc và nhân dân, tạo cơ sở quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp đi vào chuyên sâu, đặc biệt là việc thay đổi về chất các thể chế, nguyên tắc, điều kiện bảo đảm độc lập xét xử và nâng cao năng lực, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ các chức danh tư pháp.
2. Thực tiễn hoạt động lập pháp của Quốc hội trong thời gian qua
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Quốc hội đã rất quan tâm đến hoạt động lập pháp. Qua kết quả hoạt động của Quốc hội từ sau năm 1986 trở lại đây cho thấy, Quốc hội khoá VIII (1987-1992) đã ban hành Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước, vừa khẳng định những tư tưởng đúng đắn của Hiến pháp trước, vừa có những sửa đổi, bổ sung quan trọng, thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng ta; xác định các quyền và nghĩa vụ của công dân trong thời kỳ mới; hoàn thiện các chế định về cơ cấu tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quốc hội khoá VIII đã ban hành được 31 luật; Hội đồng Nhà nước với tư cách là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội đã ban hành được 43 pháp lệnh.
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội khoá IX, trên cơ sở xác định tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật đã tích cực hoạt động, dành nhiều thời gian cần thiết cho hoạt động lập pháp. Vì vậy, nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX đã thông qua được 36 luật (kể cả luật sửa đổi, bổ sung), Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thông qua được 41 pháp lệnh do Quốc hội giao. Điều đáng lưu ý là các luật, pháp lệnh được ban hành đã thể chế hoá đường lối của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Quốc hội khoá X đã sớm xác định kế hoạch lập pháp dài hạn, trên cơ sở đó thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của cả nhiệm kỳ và hàng năm, tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức hữu quan có điều kiện, thời gian chủ động chuẩn bị các dự án được phân công. Quốc hội, UBTVQH đã thảo luận, thông qua 01 bộ luật, 31 luật, 39 pháp lệnh, 29 nghị quyết có quy phạm pháp luật (QPPL). Điểm nổi bật là Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tiếp tục cải cách thể chế tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quy trình xây dựng pháp luật đã được quan tâm cải tiến tạo điều kiện cho việc thông qua dự án luật được nhanh hơn và tập trung vào việc nâng cao chất lượng văn bản.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI, hoạt động lập pháp có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập kinh tế quốc tế. Về số lượng, Quốc hội đã xem xét, thông qua được 84 luật, bộ luật và 15 nghị quyết có chứa QPPL, UBTVQH đã xem xét, thông qua được 31 pháp lệnh, đưa số lượng văn bản pháp luật được thông qua trong nhiệm kỳ tăng lên rất nhiều so với trước đây, mở ra triển vọng đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta. Về chất lượng, các dự án luật được chuẩn bị kỹ hơn theo hướng cụ thể hơn, bám sát yêu cầu về mọi mặt của công cuộc đổi mới đất nước, xử lý tốt hơn một số vấn đề nhạy cảm, phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, hoạt động lập pháp tiếp tục đẩy mạnh, tăng về số lượng, nâng cao chất lượng văn bản pháp luật và quy trình, thủ tục; cơ bản đáp ứng được yêu cầu đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong vòng 4 năm (2007 - 2011), Quốc hội đã thông qua 68 luật, 12 nghị quyết; UBTVQH đã thông qua 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết có chứa QPPL, trong đó, đáng chú ý là phần lớn các văn bản được ban hành hoặc là sửa mới hoặc sửa một cách toàn diện. Các dự án luật được ban hành có chất lượng cao, cụ thể, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm; bám sát, phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn kinh tế - xã hội. Quy trình lập pháp tiếp tục được đổi mới, cải tiến theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính chủ động, dân chủ, cụ thể trong văn bản pháp luật.
Trong những năm đầu của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, bên cạnh hoạt động giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã dành nhiều thời gian cho hoạt động lập pháp. Nhiều đạo luật, pháp lệnh tiếp tục được Quốc hội, UBTVQH xem xét, thông qua. Đặc biệt, năm 2013 là năm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước nhà, đó là việc Quốc hội xem xét, thông qua Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở pháp lý cho việc soạn thảo các dự án luật trong những năm tiếp theo.
Nhìn chung, qua các nhiệm kỳ Quốc hội, từ Quốc hội khoá VIII đến nay, hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn. Quốc hội dành nhiều thời gian cần thiết cho việc thảo luận, thẩm tra, xem xét và quyết định thông qua các dự án luật. Quốc hội đã thảo luận và ra Nghị quyết về công tác xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và cho cả nhiệm kỳ, trong đó xác định những lĩnh vực cần ưu tiên, thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời đề ra biện pháp để triển khai thực hiện công tác xây dựng pháp luật một cách có hiệu quả. Tại các kỳ họp của Quốc hội, việc thảo luận, xem xét, quyết định thông qua các dự án luật đã thiết thực hơn. Đại biểu Quốc hội đã thảo luận sôi nổi, phát biểu nhiều ý kiến để chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật. Quy trình, thủ tục soạn thảo, thẩm tra, xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh từng bước được cải tiến, bổ sung. Các văn bản pháp luật được ban hành trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc phục vụ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và từng bước thực hiện việc đổi mới bộ máy nhà nước, giữ gìn trật tự kỷ cương, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại theo Nghị quyết của Đảng.
Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đang tiến hành ở nước ta và việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Cho tới nay, mặc dù Nhà nước ta đã ban hành được rất nhiều văn bản pháp luật mới và sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật hiện hành, song hệ thống pháp luật vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, một số văn bản pháp luật mới ban hành chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, một số quy định có tính khả thi thấp, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Điều đáng lưu ý là trong các văn bản pháp luật còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc chung, chưa cụ thể để thi hành, áp dụng được ngay mà còn phải ban hành nhiều văn bản cụ thể hoá, hướng dẫn thi hành, trong khi đó các văn bản này lại ban hành không kịp thời nên pháp luật chậm đi vào cuộc sống và không tránh khỏi có những cách hiểu, cách làm khác nhau, dẫn đến sơ hở, lợi dụng trong việc thi hành pháp luật. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc quản lý nhà nước còn có những yếu kém, tệ tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và những tệ nạn xã hội khác vẫn xảy ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng.
Thực trạng tình hình và yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đặt ra nhiều vấn đề liên quan tới việc đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội. Có những vấn đề đổi mới đặt ra trong khuôn khổ của Hiến pháp, đồng thời cũng có những vấn đề đòi hỏi sự tiếp tục nghiên cứu để đổi mới ở phạm vi rộng hơn trong thời gian tới, bảo đảm phấn đấu có đủ các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực đời sống xã hội.
3. Những định hướng tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới
Thứ nhất, việc đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội phải phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; gắn liền với việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Thứ hai, một số nội dung tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội:
 - Triển khai việc thực hiện Hiến pháp năm 2013 theo hướng tiếp tục thể chế hoá các chủ trương của Đảng về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là nguyên tắc: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” và nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nước phù hợp với nội dung mới trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển) và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.
- Phân định phạm vi, thẩm quyền lập pháp của Quốc hội. Quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến và quyền lập pháp, vì vậy, cần quy định bằng luật của Quốc hội các vấn đề cơ bản, quan trọng, tương đối ổn định thuộc các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân, cụ thể là: Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; Nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước; Các loại thuế, nguyên tắc chủ yếu về tài chính, tiền tệ quốc gia; Các quy định về hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự; Quy định về quốc tịch; Quy định về huân, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; Quy định về đại xá; Các vấn đề khác theo quy định của Hiến pháp năm 2013.
- Đổi mới việc lập và thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Căn cứ vào Hiến pháp, Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, cần đổi mới tư duy trong việc lập và thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh theo hướng: việc xây dựng chính sách pháp luật của các dự án luật, pháp lệnh phải được hoàn thành cơ bản cùng với việc thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trong đó các Bộ, ngành hình thành rõ ràng chính sách ngay trong các đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; Chính phủ xem xét, duyệt và chịu trách nhiệm về các chính sách trong các dự án luật, pháp lệnh được đưa vào dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trình Quốc hội; Quốc hội phê chuẩn, thông qua chương trình cũng đồng thời là phê chuẩn các chính sách do Chính phủ đề xuất và đồng thời giám sát việc luật hoá các chính sách đó trong các dự án luật, pháp lệnh. Việc lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản QPPL phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật nhằm phục vụ công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân nhưng phải có thứ tự ưu tiên hợp lý dựa trên các căn cứ (i) các lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt, tạo sức bứt phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn để ưu tiên tập trung nguồn lực xây dựng thể chế; (ii) những lĩnh vực cơ bản, quan trọng, ổn định được điều chỉnh bằng luật, không đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đối với các dự án luật trong các lĩnh vực mà quan hệ xã hội còn biến động, chưa chín muồi; (iii) năng lực thực tế của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra để bảo đảm tính khả thi, hợp lý trong việc đưa văn bản vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tránh dồn quá nhiều dự án vào một cơ quan, khó bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng của dự án. Việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm cần bám sát tiến độ thực hiện chương trình nhiệm kỳ Quốc hội để bảo đảm cân đối, tránh dồn quá nhiều dự án vào năm cuối nhiệm kỳ Quốc hội. Việc lập chương trình xây dựng văn bản QPPL phải có tính chiến lược, dài hạn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm tính toàn diện, khả thi. Trước mắt, cần tập trung xây dựng và tổ chức triển khai chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII (2011-2016) và nhiệm kỳ tiếp theo, bảo đảm thể chế hoá đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối được xác định tại các văn kiện về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp, chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và các quy định của Hiến pháp năm 2013; chương trình phải có tính dự báo cao, bám sát yêu cầu thực tiễn, với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải được lập theo hướng mở, kịp thời đáp ứng nhu cầu xây dựng thể chế đặt ra trong quản lý nhà nước.
Trong việc xem xét, thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, cần chú trọng đổi mới một số quy trình, thủ tục sau đây:
Một là, quy định rõ thời hạn, nội dung trách nhiệm của các chủ thể có quyền trình dự án luật trong việc đề xuất đưa các dự án vào chương trình; có quy trình tiếp thu sáng kiến pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân để làm cơ sở cho việc xem xét, quyết định chương trình nhằm phản ánh được sát thực nhu cầu của xã hội;
Hai là, coi việc lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là giai đoạn phân tích chính sách trong quá trình tiền soạn thảo. Việc phân tích chính sách được làm tốt từ giai đoạn này, có cơ sở khoa học, thực tiễn sẽ tạo thuận lợi cho việc phê duyệt chính sách trong quá trình Quốc hội xem xét, thông qua luật sau này;
Ba là, cơ quan thẩm tra cần dành nhiều thời gian hơn cho việc xem xét về từng dự án để đưa ra những kiến nghị, phản biện có chất lượng. Việc phối hợp thẩm tra cần được coi trọng bởi các dự án đưa vào chương trình liên quan đến lĩnh vực chuyên môn sâu của từng Ủy ban phụ trách;
Bốn là, việc thảo luận, quyết định các dự án luật vào chương trình hàng năm cần phải được xác định là khâu quan trọng nhất. Theo đó, cần bố trí thời gian hợp lý để đại biểu Quốc hội thảo luận kỹ về từng dự án, bao gồm các vấn đề về tên gọi, đối tượng, phạm vi điều chỉnh, quan điểm, chính sách cơ bản, nội dung chính của văn bản, thời gian dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến, thông qua. Đồng thời, coi trọng đánh giá tác động sơ bộ của dự án trên cơ sở đề xuất của cơ quan trình, ý kiến của cơ quan thẩm tra để làm định hướng cho việc soạn thảo dự án luật sau này;
Năm là, sớm ban hành văn bản quy định cụ thể việc tổ chức triển khai thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, trong đó xác định rõ vai trò chủ động của UBTVQH trong chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản; đẩy mạnh công tác giám sát, đôn đốc thực hiện, tăng cường kỷ luật trong việc xây dựng và thực hiện chương trình; cần có chế tài xử lý nghiêm khắc cơ quan đề xuất xây dựng văn bản QPPL nhưng không tiến hành soạn thảo được hoặc không bảo đảm tiến độ soạn thảo;
Sáu là, bảo đảm tính đồng bộ giữa việc lập chương trình xây dựng nghị định, văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;     
Bảy là, cần bố trí kinh phí thoả đáng cho việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản QPPL, coi đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật là đầu tư cho phát triển.
- Đổi mới quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội theo hướng tạo sự chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Đảng đoàn Quốc hội chủ động, kịp thời lãnh đạo công tác lập pháp thông qua UBTVQH; quyết định và chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị về những vấn đề liên quan đến dự án luật, pháp lệnh, chỉ những vấn đề quan trọng, phức tạp, liên quan đến những chủ trương, chính sách lớn của Đảng thì mới báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
Xác định tính bắt buộc của việc phân tích chính sách trong toàn bộ quy trình xây dựng, ban hành văn bản, coi đây là điểm then chốt chi phối việc đổi mới quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh. Vấn đề xác định, đề xuất, phân tính chính sách không phải chỉ được chú trọng trong quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh mà còn phải được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện khi tham mưu, tư vấn cho các cơ quan Đảng ngay từ khâu hoạch định chủ trương, chính sách. Tiếp tục đổi mới cách thức thảo luận, thông qua luật, pháp lệnh theo hướng tập trung vào các chính sách cơ bản của dự án.
Cần sớm phân công hợp lý cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra đối với các dự án luật, pháp lệnh để tạo điều kiện cho các cơ quan hữu quan sớm có kế hoạch phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Thủ trưởng các cơ quan được phân công chuẩn bị dự án luật, pháp lệnh phải coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác của cơ quan mình, phải tập trung đầu tư nhiều thời gian, công sức, đồng thời phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trong việc tổng kết thực tiễn, soạn thảo, lấy ý kiến, trình, thẩm tra, cho ý kiến chỉnh lý về các dự án. Công tác thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được tổ chức theo chiều sâu. Một mặt xem xét sự phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, mặt khác xem xét tính hợp hiến, tính đồng bộ, thống nhất của dự án, tính khoa học, sự phù hợp với thực tiễn, với ý chí nguyện vọng của nhân dân. Việc cân nhắc, xem xét một cách thận trọng tất cả các ý kiến khác nhau trong quá trình xây dựng dự án sẽ làm cho hoạt động thẩm tra ngày càng phong phú, khoa học, chặt chẽ và toàn diện hơn. Cần tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn giúp việc cho Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội.
Việc tổ chức lấy ý kiến các ngành, các cấp và ý kiến của nhân dân đối với các dự án luật, pháp lệnh cần hết sức được coi trọng và phải được tiến hành một cách thực chất, có kế hoạch, yêu cầu cụ thể tuỳ theo nội dung từng dự án luật, pháp lệnh và đối với từng đối tượng, tránh hình thức, tổ chức cập rập, thiếu chỉ đạo cụ thể, làm mất nhiều thời gian, tiền của, công sức mà kết quả thu được không nhiều.
Cải tiến công tác chuẩn bị, thảo luận, quyết định thông qua các dự án luật tại kỳ họp Quốc hội. Quốc hội cần dành thời gian tập trung thảo luận và biểu quyết thông qua các nội dung cơ bản của dự án luật, còn các vấn đề về kỹ thuật, cách thể hiện thì các cơ quan chức năng, các chuyên gia phải bảo đảm giải quyết tốt trước khi trình Quốc hội. Nâng cao chất lượng hoạt động tập hợp, tổng hợp ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc hội về dự án luật và làm tốt công tác thông tin, tư liệu phục vụ các đại biểu Quốc hội.
Việc thảo luận, thông qua các đạo luật cần cải tiến theo hướng dành nhiều thời gian thông qua thảo luận tại hội trường trong phiên họp toàn thể, đi sâu vào những vấn đề cơ bản của dự án luật.
Tăng cường chất lượng của việc xem xét, cho ý kiến của UBTVQH đối với dự án luật trước khi trình Quốc hội.
Xây dựng cơ chế và tạo điều kiện về mọi mặt để các đại biểu Quốc hội thực hiện tốt quyền kiến nghị về luật và cùng các cơ quan hữu quan trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội cần dành thời gian thoả đáng, cần thiết để cùng các đại biểu Quốc hội khác tập trung đoàn thảo luận, đóng góp ý kiến vào các dự án luật, pháp lệnh tại địa phương.
Để góp phần bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH cần được tăng cường nhằm bảo đảm cho các quy định trong văn bản pháp luật được hiểu đúng và thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
- Đổi mới quy trình xem xét, thông qua luật, pháp lệnh theo hướng áp dụng quy trình làm luật hiện đại với phương thức ba lần trình, cụ thể là: Bước 1, trình Quốc hội xem xét đề nghị, kiến nghị về luật để đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Quốc hội thảo luận kỹ về đề nghị, kiến nghị về luật, trong đó tập trung chủ yếu vào việc xem xét sự cần thiết ban hành, những chính sách cơ bản dự kiến được điều chỉnh và đánh giá tác động sơ bộ. Ủy ban Pháp luật có trách nhiệm thẩm tra báo cáo với Quốc hội về việc đưa dự án luật, pháp lệnh vào chương trình; Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội có trách nhiệm phát biểu ý kiến chính thức của mình về các đề nghị, kiến nghị này để làm cơ sở cho Quốc hội xem xét, quyết định. Bước 2, trình Quốc hội dự án luật để Quốc hội cho ý kiến. Ở giai đoạn này, dự án luật được trình Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra; Quốc hội thảo luận, cho ý kiến, biểu quyết về những chính sách cơ bản của dự án, cơ quan của Quốc hội chủ trì thẩm tra chủ trì phối hợp với chủ thể trình dự án và các cơ quan, tổ chức hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản. Bước 3, cơ quan chủ trì hoàn thiện dự thảo luật, thay mặt cơ quan, tổ chức hữu quan trình dự án luật đã được chỉnh lý, hoàn thiện để Quốc hội xem xét, thông qua.
Thứ ba, bảo đảm để luật, pháp lệnh ban hành sớm đi vào cuộc sống.
Cùng với việc đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật, cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp cần thiết nhằm sớm đưa các QPPL đi vào cuộc sống.
Xây dựng pháp luật và bảo đảm nghiêm chỉnh thi hành pháp luật là nội dung cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Thực tiễn thi hành sẽ kiểm nghiệm chất lượng của công tác xây dựng pháp luật, đồng thời qua thực tiễn thi hành sẽ chỉ rõ những cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật. Nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân, thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong cán bộ và nhân dân nhằm làm cho mọi người hiểu đúng tinh thần và nội dung các văn bản pháp luật đã được ban hành để thực hiện thống nhất trong cả nước.
Chú trọng việc cung cấp văn bản pháp luật cho các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng, toàn thể đến tận cấp cơ sở. Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí cho việc in ấn, phát hành văn bản pháp luật trong nhân dân.
Thực hiện nghiêm ngặt, thường xuyên công tác thẩm tra, giám sát, kiểm sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức nhà nước và công dân./.

 


*PGS.TS. Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3+4(283+284), tháng 2/2015)


Thống kê truy cập

32994114

Tổng truy cập