Một số vấn đề lý luận về hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội

01/09/2014

ThS. TRẦN VĂN THUÂN

Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu Lập pháp

1. Vai trò các Ủy ban trong hoạt động của Quốc hội[1]
Thiết chế Ủy ban có vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nghị viện các nước. Ở một số quốc gia phương Tây, nơi thiết chế Nghị viện có bước phát triển sớm và mạnh mẽ, xuất phát từ xu hướng vận động phát triển của nền dân chủ và những bước phát triển thực tiễn về thẩm quyền ngày càng to lớn của Nghị viện, như câu ngạn ngữ thường được các nhà nghiên cứu nhắc đến khi nói về vai trò, thẩm quyền của Nghị viện: “Nghị viện có thể làm được tất cả, trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”, nên nhu cầu về việc phân công lao động trong nội tại Nghị viện mang tính khách quan. Hệ thống các Ủy ban trong Nghị viện nhiều nước ra đời và phát triển trong bối cảnh đó. Đặc biệt, ở Anh, trong những năm đầu của thế kỷ XIX, vai trò, ý nghĩa hoạt động của các tiểu ban của Nghị viện cũng được C. Mác đề cập khi nghiên cứu về vấn đề sự chuyển hóa của lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô. Mác viết: “Những công trình nghiên cứu của các tiểu ban của Nghị viện có nhiệm vụ điều tra về mức tiền công, và được thành lập ở Anh trước ngày thông qua các đạo luật về lúa mì - cho đến nay những công trình nghiên cứu đó vẫn là một sự cống hiến quý giá nhất, và hầu như chưa được ai khai thác, vào lịch sử tiền công thế kỷ XIX, và đồng thời đó là một đài kỷ niệm nhục nhã mà giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản Anh đã tự dựng lên cho chúng…”[2].  
Vị trí pháp lý cũng như vai trò thực tế của các Ủy ban trong quy trình lập pháp của Nghị viện các nước phần nào thể hiện thông qua nhận xét của Woodrow Wilson (năm 1885) khi nói về vai trò của các Ủy ban trong hoạt động của Quốc hội Mỹ: không xa sự thực khi nói rằng, Quốc hội trong cuộc họp là Quốc hội trình diễn trước công chúng, Quốc hội trong làm việc tại các Ủy ban mới là Quốc hội làm việc[3]. Điều này được lý giải bởi hầu hết các công việc của Quốc hội đều đã được đưa đến các Ủy ban theo quy trình để xem xét chi tiết trước khi được xem xét thảo luận, quyết định tại Quốc hội. Mặc dù có những khác biệt về nguyên tắc tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước, về thể chế, cơ chế vận hành của quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, song vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của các Ủy ban trong Nghị viện là một thực tế khách quan, phản ánh yêu cầu, mức độ chuyên môn hóa và tổ chức công việc trong quá trình phát triển lâu dài của thiết chế Nghị viện.
Ngày nay, hệ thống Ủy ban trong Nghị viện ở các quốc gia khác nhau đã ngày càng chứng tỏ rõ vai trò như là một phương tiện, cách thức sáng tạo giúp Nghị viện có thể thực hiện những chức năng cơ bản của mình.    Đặt trong điều kiện thực tế và bối cảnh chính trị cụ thể của nước Mỹ, có thể hình dung vai trò của các Ủy ban Quốc hội qua một nhận định: “khó có một mong muốn nào của Quốc hội có thể hoàn thành mà lại không có vai trò của các Ủy ban với vị trí là các chủ thể trung tâm”[4]; hay “các Ủy ban là cơ sở hạ tầng của Quốc hội. Chúng là nơi khối lượng lớn công việc lập pháp - nơi tập trung tài năng, nơi các chính sách được ấp ủ, nơi hầu hết các kiến nghị luật pháp được viết hoặc sửa đổi, nơi rất nhiều các thỏa hiệp cần thiết được tiến hành, nơi quần chúng có thể làm cho ý kiến của mình được biết đến, nơi các thành viên của Quốc hội xây dựng ảnh hưởng và danh tiếng”[5]... Trên thực tế, những nghiên cứu phản ánh thực tiễn gần đây về tổ chức và hoạt động của Quốc hội nói chung và các Ủy ban nói riêng của Quốc hội ở Hoa Kỳ cũng ghi nhận vai trò này. Theo đó, các Ủy ban thường trực của Quốc hội quyết định số phận của hầu hết các đề xuất. Một dự luật sẽ được xem xét kỹ lưỡng nhất tại Ủy ban, một phần là do các thành viên và nhân viên của Ủy ban thường là các chuyên gia về lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Ủy ban. Nếu một dự luật được sửa đổi nhiều, thì việc sửa đổi này thường diễn ra tại Ủy ban hoặc cấp độ Tiểu ban chứ không phải trong quá trình xem xét tại Hạ viện[6]. Trên thực tế, vai trò của các Ủy ban của Nghị viện ở các nước là không hoàn toàn giống nhau, tùy thuộc vào tổ chức bộ máy nhà nước, tổ chức và vận hành của quyền lực chính trị, thậm chí là cả các yếu tố khác như tập quán truyền thống, tôn giáo...[7] Những điều kiện thực tiễn cụ thể ở từng quốc gia về chính trị, kinh tế - xã hội... lại đóng vai trò chi phối đến sự hình thành các quan điểm nghiên cứu về vai trò, mô hình các Ủy ban trong hoạt động của Quốc hội (Nghị viện).
Ở Việt Nam, nhìn lại quá trình ban hành các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, có thể thấy, Hiến pháp năm 1946 không quy định về việc thành lập Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Nghị viện hoặc một cơ quan chuyên môn tương tự của Nghị viện. Đến Hiến pháp năm 1959, các cơ quan tư vấn, tham mưu giúp Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) trong các lĩnh vực quan trọng, nhất là công tác xây dựng pháp luật; quyết định kế hoạch và ngân sách nhà nước bắt đầu được hình thành. Điều 57 của Hiến pháp quy định: “Quốc hội thành lập Ủy ban dự án pháp luật, Ủy ban kế hoạch và ngân sách, và những Ủy ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và UBTVQH”; “Nếu Quốc hội thấy cần thiết, và trong thời gian Quốc hội không họp, nếu UBTVQH thấy cần thiết, thì có thể tổ chức các Ủy ban điều tra về những vấn đề nhất định...” (Điều 58). Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Dân tộc có quyền nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước về những vấn đề dân tộc; giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước giám sát việc thi hành chính sách dân tộc (Điều 91). Các Ủy ban của Quốc hội được xác định là cơ quan “thường trực” của Quốc hội. Nhiệm vụ của các Ủy ban thường trực là nghiên cứu, thẩm tra những dự án luật, dự án pháp lệnh, dự án khác hoặc những báo cáo; kiến nghị với Quốc hội và Hội đồng Nhà nước những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban; giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát. Khi xét thấy cần thiết, Quốc hội và Hội đồng Nhà nước có thể thành lập các Ủy ban lâm thời để làm những nhiệm vụ nhất định (Điều 92).  Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hội đồng Dân tộc ngoài nhiệm vụ nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về những vấn đề dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số, còn có những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Ủy ban của Quốc hội (Điều 94). Các Ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ “Nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và dự án khác, những báo cáo được Quốc hội hoặc UBTVQH giao; trình Quốc hội, UBTVQH ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kiến nghị về những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban” (Điều 95 Hiến pháp 1992). Bên cạnh một số điểm mới được sửa đổi, bổ sung, Hiến pháp năm 2013 về cơ bản tiếp tục kế thừa những quy định nêu trên về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, kể từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá II cho đến nay, có thể nói một cách tổng quát rằng, toàn bộ những kết quả hoạt động của Quốc hội nước ta không thể tách rời với vị trí, vai trò và kết quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Không nằm ngoài quy luật chung, trong thực tế, sự hình thành, phát triển về số lượng, cơ cấu tổ chức và xu thế ngày càng mở rộng về phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội là những minh chứng thực tiễn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của các cơ quan này trong hoạt động của Quốc hội nước ta. Xét đến cùng, đại biểu Quốc hội về bản chất mới thực sự là trung tâm trong mọi hoạt động của Quốc hội, nhưng từng cá nhân đơn lẻ đại biểu Quốc hội khi phải đối diện với bề bộn các vấn đề quốc gia đại sự và cần phải phát biểu, cần phải biểu quyết, quyết định nếu thiếu vắng, không có kết quả tham mưu, tư vấn của các Ủy ban thì sẽ đưa đến những hệ quả như thế nào? Việc xác lập và vận hành các cơ cấu, tổ chức bên trong Quốc hội là nhu cầu thực tế, có tính chất quy luật, phát huy được trí tuệ, kinh nghiệm của các nhóm đại biểu Quốc hội về những lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Các Ủy ban của Quốc hội chính là những công cụ về mặt thể chế để Quốc hội nói chung và từng đại biểu Quốc hội nói riêng thực hiện được một cách có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của mình.
2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội
2.1. Khái niệm hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội
Vậy hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội nên được hiểu như thế nào? Về góc độ ngôn ngữ học, hoạt động có thể được hiểu là: “Làm những việc khác nhau với mục đích nhất định trong đời sống xã hội”, là “vận động, vận hành để thực hiện chức năng nào hoặc gây tác động nào đó”[8]; hay hoạt động là việc “thực hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể”, “tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích chung, trong một lĩnh vực nhất định”[9].
Trong hoạt động của Quốc hội/Nghị viện nói chung, như đã đề cập ở trên, hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội có thể là toàn bộ các hoạt động do các cơ quan này thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định; hoạt động này phản ánh đặc thù của Ủy ban với vị trí là các cơ cấu được được thành lập bên trong hệ thống Nghị viện (thuộc cơ cấu của Nghị viện); ở nhiều nước, hoạt động của các Ủy ban là điểm trung tâm của hoạt động lập pháp và giám sát. Mặc dù có những khác biệt nhất định về mặt thẩm quyền, song về bản chất hoạt động, thì Ủy ban không phải là một thiết chế ra quyết định, trừ một số trường hợp cụ thể liên quan đến phạm vi quy trình, thủ tục bên trong của Nghị viện; các báo cáo, kết luận của Ủy ban từ kết quả hoạt động, từ việc thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban trình Nghị viện thường đi kèm với các khuyến nghị Nghị viện về việc đưa ra các quyết định nhất định.
Ở Nhà nước ta, về mặt thời gian, kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên với tên gọi ban đầu là Nghị viện nhân dân theo Hiến pháp năm 1946, thiết chế Quốc hội là khá mới mẻ, với thời gian hoạt động không dài nếu so sánh với thiết chế Nghị viện/Quốc hội các nước. Cùng với những đặc điểm của lịch sử đấu tranh giành, giữ vững nền độc lập, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì đây cũng là những đặc điểm về bối cảnh cần quan tâm khi tìm hiểu về hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta trong nhiều thập kỷ qua.
Nhìn chung, trên thực tế và về mặt pháp lý, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở Việt Nam cũng có những nét tương tự về vị trí, vai trò như hệ thống Ủy ban trong Quốc hội/Nghị viện các nước. Vị trí, vai trò của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng chủ yếu được nhìn nhận và thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan này trong lĩnh vực lập pháp, giám sát. Bên cạnh đó, so với hệ thống Ủy ban ở Quốc hội/Nghị viện các nước, bên cạnh chức năng thẩm tra, giám sát, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước ta được Hiến pháp quy định thực hiện kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban. Phạm vi hoạt động giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội cũng không chỉ dừng ở phạm vi đối tượng chủ yếu là ngành hành pháp như một số nước, mà có sự mở rộng hơn. Ngoài ra, phù hợp với thực tiễn, hoạt động của hệ thống các cơ quan trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội ở Việt Nam còn được thể hiện ở đặc thù trong lĩnh vực dân tộc, với việc thành lập và hoạt động của Hội đồng Dân tộc. Khác với các nước, là một cơ quan của Quốc hội, có vị trí, vai trò cơ bản tương tự như các Ủy ban của Quốc hội, song Hội đồng Dân tộc còn được Hiến pháp quy định một cách nhấn mạnh hơn, theo đó, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc; khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc (Điều 75 Hiến pháp năm 2013).
Ngoài các phương diện hoạt động mang tính chất gắn bó, phục vụ trực tiếp cho hoạt động của Quốc hội nêu trên, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội còn thực hiện một số hoạt động khác theo quy định của pháp luật, như trách nhiệm tham gia vào hoạt động bảo vệ Hiến pháp[10]; đề nghị Quốc hội, UBTVQH về việc lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp, đại biểu Quốc hội về dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết hoặc về vấn đề quan trọng khác; đề nghị đưa vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách ra thảo luận tại phiên họp của UBTVQH hoặc kỳ họp Quốc hội; quyết định và tổ chức thực hiện chương trình hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế hàng năm của mình; kiến nghị với cơ quan hữu quan về các vấn đề tổ chức và hoạt động đối ngoại thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách; tiến hành hợp tác với cơ quan hữu quan của Quốc hội các nước, cơ quan hữu quan khác của nước ngoài, tổ chức quốc tế[11]. Thường trực Hội đồng, Ủy ban còn được pháp luật quy định có các nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất hành chính, quản lý nội bộ như ban hành quy chế hoạt động, phân công công tác, quản lý, sử dụng ngân sách của Ủy ban; một phần nhiệm vụ liên quan đến công tác nhân sự của bộ máy giúp việc...
Từ đó, có thể hiểu hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta là việc các cơ quan này tiến hành các công việc cụ thể nhằm thực hiện chức năng thẩm tra, giám sát, kiến nghị của các Ủy ban của Quốc hội đã được pháp luật quy định, với mục đích phục vụ, tư vấn về chuyên môn cho Quốc hội, UBTVQH hoặc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác được pháp luật quy định.
Xét về phương diện chủ thể, có thể nói hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội là tổng hòa các hoạt động của tất cả các thành viên Ủy ban; hoạt động của các thành viên Ủy ban cấu thành hoạt động của Ủy ban. Ở một số nước, hoạt động của các Ủy ban còn tiếp tục được chia nhỏ hơn ở khâu chuẩn bị thông qua hoạt động của các cơ cấu bên trong của Ủy ban là Tiểu ban, hoặc nhóm thành viên trong Ủy ban... Trong những trường hợp này, có thể nói các cơ cấu bên trong của Ủy ban chỉ là các hình thức tổ chức hoạt động cụ thể của Ủy ban, thể hiện chủ yếu khía cạnh vận động nội tại bên trong hệ thống các Ủy ban khi triển khai thực hiện các hoạt động theo thẩm quyền được pháp luật quy định. Tùy theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia, mà sự vận hành của các cơ cấu bên trong của các Ủy ban cũng có sự khác biệt.
Ở Việt Nam, hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các phiên họp toàn thể của Hội đồng, Ủy ban, hoạt động của Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban, các tiểu ban, Đoàn giám sát, Đoàn công tác và của các thành viên Hội đồng, thành viên Ủy ban[12]. Như vậy, về phương diện chủ thể thực hiện, ở góc độ chi tiết, thì các chủ thể hoạt động bên trong Ủy ban có thể kể đến 04 nhóm chủ thể chính là: (i) Thường trực Hội đồng, Ủy ban; (ii) các tiểu ban; (iii) các đoàn giám sát, đoàn công tác; và (iv) các thành viên Hội đồng, Ủy ban. Nhưng xét đến cùng, các cơ cấu bên trong của Ủy ban về bản chất chỉ là cách thức tổ chức các thành viên của Ủy ban như thế nào để hoạt động sao cho hiệu quả; và tất cả sự vận hành, hoạt động của các cơ cấu bên trong của Ủy ban, cơ bản là mang tính chất chuẩn bị cho hoạt động của toàn thể Ủy ban nói chung (thông qua phiên họp toàn thể). Đối với Việt Nam, ngoại trừ một số thẩm quyền đặc thù của Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã được pháp luật quy định, thì việc hiểu theo hướng này mới bảo đảm nguyên tắc “làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số” của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
2.2. Đặc điểm hoạt động của các Ủy ban
Từ nhận thức về khái niệm hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội như trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm trong hoạt động của các cơ quan này, cụ thể là:
Thứ nhất, hoạt động thường xuyên. Có thể nói, hầu hết các Quốc hội, Nghị viện các nước đều duy trì hệ thống các Ủy ban với đặc điểm là các cấu trúc hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Với đặc điểm là các cấu trúc về chuyên môn trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của Quốc hội/Nghị viện, tính chất thường xuyên, thường trực trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội được duy trì và phát triển như là một thực tế khách quan. Phản ánh thực tế này, khi nghiên cứu về hoạt động của Nghị viện một số nước Trung và Đông Âu, David M. Olson đã nhấn mạnh đến tính chất thường trực trong hoạt động của hệ thống các Ủy ban Nghị viện, theo đó, cho dù có những thay đổi về tương quan chính trị, sự thay đổi trong chính phủ, thì các Ủy ban vẫn cung cấp cho Nghị viện một sự liên tục về cấu trúc và quy trình hoạt động từ nhiệm kỳ này đến nhiệm kỳ khác; thậm chí, ngay cả khi có sự thay đổi lớn về thành viên Ủy ban thì sự liên tục về cấu trúc và quy trình của Ủy ban vẫn có thể định hướng cho các thành viên mới của Ủy ban hòa nhập với môi trường Nghị viện. Hoạt động của Quốc hội phụ thuộc vào tiến trình hình thành những định chế như vậy qua thời gian và được đánh giá lần lượt thông qua các cuộc bầu cử và các nhiệm kỳ của Quốc hội[13]. Ở phương diện tổng quát, điều này diễn ra cả đối với các nước mà Nghị viện hoạt động thường xuyên và đối với một số nước mà Quốc hội/Nghị viện hoạt động không thường xuyên.
Ở Việt Nam, ngoài những lý do tương tự có thể góp phần lý giải vì sao việc vận hành thường xuyên của các Ủy ban có ý nghĩa như là một đòi hỏi của thực tế, một lý do nữa có thể góp phần lý giải thêm về tầm quan trọng của việc phải nhấn mạnh và thật sự coi trọng đặc điểm này. Khác với nhiều nước, Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, Quốc hội họp mỗi năm chủ yếu là 02 kỳ, mỗi kỳ họp kéo dài khoảng trên dưới một tháng; đa số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm. Đối với Quốc hội Việt Nam, điều này thậm chí còn trở nên có ý nghĩa lớn hơn, bởi đa số các vị đại biểu Quốc hội hoạt động theo chế độ không chuyên trách, đại biểu Quốc hội không phải là một nghề, các vị đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách còn phải đảm nhiệm những công việc khác - mà đây mới thực tế là công việc chính của họ; do đó, nguồn thông tin từ báo cáo của các Ủy ban của Quốc hội trở nên có ý nghĩa - mà nhiều khi là quyết định - trước mỗi quyết định tán thành, hay không tán thành... của đại biểu Quốc hội. Đây là điểm quan trọng để có thể giải thích vì sao đặc điểm hoạt động thường xuyên trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta lại có ý nghĩa, vai trò quan trọng như vậy.
Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, pháp lý và thực tiễn, không phải luôn luôn có cách tiếp cận thống nhất về đặc điểm “thường xuyên” trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội. Tính chất “thường trực” của các Ủy ban được quy định về mặt pháp lý lần đầu tiên vào năm 1981, theo đó, thuật ngữ “Ủy ban thường trực của Quốc hội” được sử dụng (Điều 46 Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981). Tuy nhiên, trong Luật tổ chức Quốc hội hiện hành lại không tiếp tục sử dụng thuật ngữ này khi quy định về các Ủy ban của Quốc hội; song có thể hiểu gián tiếp tính chất thường xuyên, thường trực trong hoạt động của các Ủy ban thể hiện qua việc pháp luật hiện hành đã có quy định rõ về việc Quốc hội thành lập Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban với tên gọi cụ thể (Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2007); đặt trong mối liên hệ, tương quan với quy định tại Điều 23 của Luật này về việc thành lập Ủy ban lâm thời khi Quốc hội xét thấy cần thiết. Cũng phải nói rằng, nếu so sánh với cách thức quy định về vị trí của UBTVQH trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 (UBTVQH được xác định rõ là “cơ quan thường trực của Quốc hội”) thì rõ ràng vị trí, tính chất của UBTVQH đã được biểu đạt một cách rõ ràng hơn.
Trong những năm gần đây, tính chất “thường xuyên” trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta cũng có những đặc điểm riêng. Trên thực tế, yếu tố thường xuyên thực sự phản ánh đúng thực tế khi ta nói về hoạt động của bộ phận Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; với thực tế là đây là những thành viên mà tuyệt đại đa số là hoạt động chuyên trách, thường xuyên trong Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Phần lớn thành viên Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội vẫn hoạt động kiêm nhiệm, trên thực tế là họ đang đảm nhiệm các chức danh, thực thi các nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực, thuộc các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, đơn vị... ở trung ương, địa phương và việc thực hiện các nhiệm vụ này thực tế mới là nhiệm vụ chính của họ. Về mặt pháp lý, được lý giải bởi điều kiện thực tế và phù hợp với đặc thù đa số thành viên hoạt động kiêm nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, nên Thường trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã được pháp luật trao cho không ít những thẩm quyền trong hoạt động thẩm tra, giám sát... Ở khía cạnh này và xét trên phương diện lý thuyết, có thể nói cách tiếp cận như vậy vô hình chung sẽ làm cho đặc điểm thường xuyên trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội không còn nguyên nghĩa; đặc điểm thường xuyên, thay vì tồn tại như là một đặc tính của cả một hệ thống Ủy ban, trên thực tế và về mặt pháp lý đã trở thành đặc điểm hoạt động của một bộ phận trong hệ thống Ủy ban - bộ phận Thường trực. Nếu xem xét dưới góc độ hệ thống và chỉnh thể, việc duy trì quá lâu đặc tính này sẽ không khai thác, phát huy đầy đủ các yếu tố năng lực, chuyên môn... nhằm giúp cho hoạt động của Quốc hội theo chiều hướng hiệu quả hơn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với ý nghĩa là toàn thể chứ không phải là những bộ phận, dù là tinh túy, của các thiết chế này. Về nguyên lý, điều này vô hình chung sẽ dẫn đến khả năng có thể làm xói mòn, suy giảm nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số... vốn tạo nên “sức mạnh” tham mưu, tư vấn cho Quốc hội của các Ủy ban của Quốc hội nói chung.
Thứ hai, hoạt động của các Ủy ban với tính chất tham mưu, tư vấn về chuyên môn với vị trí là một khâu trong quy trình hoạt động của Quốc hội. Quốc hội là một tập thể lớn gồm hàng trăm đại biểu, với phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn to lớn, liên quan đến tất cả các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... của một quốc gia. Việc tồn tại và hoạt động của các Ủy ban trong Quốc hội vì thế cũng chính là những thiết chế, công cụ giúp cho Quốc hội nói chung và từng cá nhân đại biểu Quốc hội là thành viên Quốc hội nói riêng có thể sử dụng hay phát triển tri thức sâu về chuyên môn trong những lĩnh vực nhất định[14]. Ở một khía cạnh, nó là một phần tất yếu trong công tác tự tổ chức, tự phân công lao động của một cơ quan để có thể vận hành sao cho có hiệu quả; ở khía cạnh khác, đó cũng là cơ sở để phát huy các nguồn tri thức sâu về chuyên môn trong từng lĩnh vực cụ thể của chính các thành viên của Quốc hội. Thông qua việc cơ cấu các đại biểu Quốc hội vào làm thành viên của các Ủy ban của Quốc hội, Quốc hội có thể đồng thời xem xét hàng chục dự luật được đề xuất. Trong trường hợp của Quốc hội Hoa Kỳ, đã có bình luận cho rằng Quốc hội Hoa Kỳ (Thượng viện với 100 thượng nghị sỹ và Hạ viện với 440 thành viên Hạ viện) sẽ không thể xử lý nổi khoảng 10.000 dự luật với gần 100.000 trường hợp bổ nhiệm cứ hai năm một lần, một lượng ngân sách quốc gia vào khoảng 1,8 nghìn tỷ đôla và nhiều vấn đề gây tranh cãi khác[15]. Trong hoạt động giám sát, Quốc hội với tư cách là cả một tập thể lớn cũng không thể cùng một lúc tiến hành tất cả các hoạt động giám sát cơ quan hành pháp, thậm chí cả đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Việc thiết lập và vận hành hệ thống các Ủy ban trong Quốc hội nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin cho các nhà lập pháp trong việc xem xét, quyết định những vấn đề chính sách vốn luôn biến động, phức tạp của quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay.
Xuất phát từ vị trí là cơ quan của Quốc hội, hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội mang tính tư vấn, tham mưu trực tiếp về chuyên môn cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Dù ở bất kỳ quốc gia nào, hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội về nguyên tắc phải góp phần và hướng đến việc giúp Quốc hội xây dựng và ban hành được các đạo luật tốt, các chính sách công tốt, được thực thi có hiệu quả trong cuộc sống. Điều này cũng còn có nghĩa là hoạt động của các Ủy ban đóng vai trò là một khâu trong toàn bộ hoạt động của Quốc hội; đây là khâu chuẩn bị quan trọng đối với các dự án, các vấn đề trước khi được đưa ra bàn thảo, xem xét quyết định tại Quốc hội. Có thể nói đây là đặc điểm mang tính chủ đạo, xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
Về cơ bản, các Ủy ban của Quốc hội là cơ quan chuyên môn do Quốc hội lập ra, giúp Quốc hội về những lĩnh vực nhất định để Quốc hội thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Các Ủy ban được tổ chức theo các lĩnh vực chuyên môn; trong đó, nhiệm vụ quan trọng là thẩm tra các dự án; các báo cáo luật quy định và thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định. Với tính chất là cơ quan chuyên môn, là cơ cấu tổ chức cần thiết trong hoạt động của Quốc hội, các Ủy ban cung cấp cho các đại biểu Quốc hội kiến thức chuyên sâu, các thông tin được phân tích, chứng minh, lập luận để từ đó, đại biểu Quốc hội có cơ sở trong việc hình thành quan điểm, ý kiến cá nhân, để phát biểu, thảo luận, và cuối cùng là thể hiện chính kiến (tán thành, không tán thành...) đối với các dự án luật, dự thảo nghị quyết và các vấn đề thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Có thể nói, xuất phát từ vị trí, tính chất, phạm vi thẩm quyền của Quốc hội, nên các hoạt động của Quốc hội có phạm vi rất rộng, liên quan đến hầu như toàn bộ các vấn đề quốc kế dân sinh, hoạt động của các Ủy ban là phương tiện, mà nhờ đó Quốc hội cùng lúc có thể xem xét thảo luận, quyết định các dự án luật, dự thảo nghị quyết và những nội dung có liên quan thuộc phạm vi thẩm quyền.
Tính chất tư vấn, tham mưu cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội còn thể hiện ở chỗ mọi hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội không đóng vai trò quyết định, không trực tiếp quyết định các vấn đề, nội dung cụ thể trong dự án, dự thảo...; không quyết định thay cho hoạt động của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Về mặt pháp lý cũng như thực tế, Quốc hội, đại biểu Quốc hội hoàn toàn có thể lựa chọn quyết định khác với ý kiến của các Ủy ban của Quốc hội. Điều này trên thực tế và về mặt lý thuyết, cũng hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù của chế độ Nghị viện, đó là các nguyên tắc làm việc tập thể quyết định theo đa số, nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nguyên tắc tập trung dân chủ... trong hoạt động của Quốc hội hiện nay. Về mặt bản chất, đây là vấn đề có tính nguyên tắc, kể cả ở một số quốc gia mà hệ thống Ủy ban của Quốc hội có vai trò rất lớn như ở Hoa Kỳ, với mục đích để kiểm soát việc các Ủy ban sử dụng vị thế của họ nhằm làm lợi cho các thành viên của mình, thì Quốc hội “giữ quyền sửa đổi hoặc bác bỏ những đề xuất của Ủy ban và khi cần có thể hủy bỏ hoặc cơ cấu lại các Ủy ban đó”[16]. Đây cũng là điểm đáng chú ý vì hệ thống các Ủy ban của Quốc hội Hoa Kỳ thường được xem là một trong những hệ thống Ủy ban “mạnh” trong thiết chế Nghị viện trên thế giới hiện nay. Những thực tiễn trên chỉ ra rằng, đặc điểm tham mưu, tư vấn chứ không phải thẩm quyền ra quyết định mới là điểm nổi trội khi đề cập đến hoạt động của các Ủy ban.
Khác với hệ thống Ủy ban Nghị viện một số nước, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam không có một số thẩm quyền về mặt thủ tục. Đây là một điểm đáng chú ý khi nghiên cứu về hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta.
Mặc dù có đặc điểm là tính chất tham mưu, tư vấn, song hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có tác động rất lớn đến hoạt động của Quốc hội nói chung. Dưới “ánh sáng” hoạt động của các Ủy ban, các khía cạnh chính sách của dự án luật, dự thảo nghị quyết... được soi sáng; các đại biểu Quốc hội có được những nguồn thông tin mang tính đánh giá, phản biện một cách toàn diện đối với các nội dung do cơ quan trình dự án đề xuất; sức nặng của các nhận định, đánh giá, kiến nghị... trong các báo cáo của Ủy ban đối với Quốc hội mà cụ thể là đối với từng cá nhân các vị đại biểu Quốc hội là rất lớn.
Thứ ba, hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội mang tính khách quan, phản biện sâu sắc. Điều cần lưu ý là tính chất phản biện ở đây không có nghĩa là đối lập, mà là sự phản biện mang tính chất xây dựng, đặt trong điều kiện thực hiện nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tính phản biện này bắt nguồn từ vị trí của Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tính phản biện ở đây rất cần thiết trong việc giúp Quốc hội hình dung ra bức tranh tổng thể, toàn diện và những chiều cạnh hợp lý/chưa hợp lý của vấn đề được đưa ra bàn thảo. Với vị trí là những cơ quan của Quốc hội, có vai trò tư vấn tham mưu cho Quốc hội trong từng lĩnh vực chuyên môn cụ thể, nếu yếu tố phản biện tích cực không được đề cao, không thể hiện được tinh thần: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” thì hệ quả tất yếu là sẽ khó tránh khỏi việc để lọt những chính sách chứa đựng yếu tố “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” trong hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.  
Bên cạnh đó, một điều quan trọng là phản biện không nên và không bao giờ chỉ được hiểu ở khía cạnh phê phán, mà điều quan trọng là phải cùng hướng tới mục tiêu xử lý tình huống, tìm ra giải pháp cụ thể để giải quyết những công việc, những khó khăn, thách thức mà thực tiễn cuộc sống đặt ra đòi hỏi phải được giải quyết thông qua hoạt động của Quốc hội.  
Ở khía cạnh này, hệ thống các Ủy ban của Quốc hội đóng vai trò như những chiếc “van” an toàn, thể hiện một phần nội dung kiểm soát các vấn đề về chính sách được trình ra Quốc hội, góp phần bảo đảm mọi quyết định của Quốc hội thực sự phù hợp với thực tiễn khách quan, xuất phát từ ý chí, nguyện vọng, từ lợi ích của nhân dân. Xét đến cùng, đây cũng chính là mục tiêu tồn tại và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Thứ tư, hoạt động của Ủy ban đều phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định mang tính đặc trưng của chế độ Nghị viện. Nhìn chung, nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số gần như là một nguyên tắc chung được áp dụng trong hoạt động của Quốc hội/Nghị viện các nước, không phụ thuộc vào mô hình Quốc hội và thể chế chính trị. Có thể lấy ví dụ trong trường hợp của Quốc hội Hoa Kỳ, “Hiến pháp quy định Quốc hội gồm hai viện, mỗi viện có thể hoạt động với sự có mặt của một số nghị sỹ quy định, theo đa số phiếu vừa đủ trừ những vấn đề bất thường cần sự ủng hộ của đa số tuyệt đối... “Tiếng nói của đa số sẽ quyết định... trừ phi có những quy định khác”. Các nguyên tắc này cũng áp dụng cho các hoạt động trong các Ủy ban của Quốc hội, trừ khi có quy định hoặc luật lệ khác”[17].
Ở Việt Nam, “làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số” đã trở thành một nguyên tắc luật định trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội[18]. Bên cạnh đó, cần chú ý đến nguyên tắc tập trung dân chủ với ý nghĩa là một nguyên tắc nền tảng cho hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan khác của Nhà nước đã được các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, từ Hiến pháp năm 1959 (Điều 4), Hiến pháp năm 1980 (Điều 6), Hiến pháp năm 1992 (Điều 6) quy định; cho đến Hiến pháp năm 2013 hiện hành, việc Nhà nước thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã là một nguyên tắc hiến định (Điều 8). Với vị trí là các cơ quan của Quốc hội, là các cơ quan trong bộ máy nhà nước, tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc đặc trưng, nền tảng trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta, song với vị trí là cơ quan thuộc Quốc hội - vốn được các nhà nghiên cứu coi là “trái tim” của thiết chế dân chủ đại diện - việc vận hành nguyên tắc này trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội cần thiết phải có những đặc thù riêng, không thể dập khuôn máy móc như đối với các cơ quan khác. Việc đề cao nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc hiến định theo quy định tại Điều 8 của Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, xuất phát từ tính chất tham mưu, tư vấn về chuyên môn cho hoạt động của Quốc hội là nhiệm vụ trung tâm của Ủy ban - đây là điểm khác biệt rất lớn so với hệ thống Ủy ban ở Quốc hội một số nước - các Ủy ban của Quốc hội nước ta không có thẩm quyền mang tính quyết định, dù là thủ tục; không phải thuộc dạng thức hoạt động của “Ủy ban mạnh” như một số nước; việc quy định nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong hoạt động của Ủy ban cần được nhìn nhận ở khía cạnh giúp các chủ thể khác thấy được mức độ đồng thuận trước những vấn đề đặt ra trong hoạt động của Ủy ban, hoàn toàn không phải là các thành viên không thuộc ý kiến đa số không có tiếng nói. Đây cũng là một thực tế được ghi nhận ở Quốc hội Thụy Điển, thông thường trong nội bộ Ủy ban của Quốc hội Thụy Điển luôn có cố gắng để đạt được sự đồng thuận trong hoạt động, nếu một Ủy ban không đạt được một sự thống nhất về một vấn đề nào đó, thì những thành viên không đồng ý với ý kiến đa số có thể thêm ý kiến của mình vào bản báo cáo của Ủy ban[19]. Ở Việt Nam, không phải ngẫu nghiên mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã đề cập đến nội dung này khi quy định báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến các thành viên Ủy ban, qua đó bảo đảm sự thận trọng, toàn diện về nội dung của báo cáo thẩm tra. Việc vận hành nguyên tắc này cũng nhằm tránh trường hợp chân lý có thể không đứng về phía đa số trong Ủy ban; vì rõ ràng, hoàn toàn không loại trừ những trường hợp Quốc hội có thể quyết định có sự khác biệt hoàn toàn với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban.
Mặc dù tôn trọng sự khác biệt, song việc vận hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội phải xác định mục tiêu của nó là hướng tới sự đồng thuận chung trong hoạt động của các Ủy ban đối với các vấn đề về chính sách; tránh tình trạng tồn tại các luồng ý kiến khác nhau theo cách thức “trăm hoa đua nở”, bởi một thực tế là khi ý kiến mang tính chất chuyên môn của các thành viên Ủy ban không thống nhất, còn bộc lộ những khác biệt quá lớn thì cũng rất khó khăn cho Quốc hội trong việc lựa chọn phương án, quyết định cụ thể. Điều này cũng đòi hỏi các Ủy ban - với ý nghĩa toàn thể phải làm việc nhiều hơn, thường xuyên hơn; nếu việc biểu quyết ngay mà chưa thảo luận, bàn bạc, tranh luận để thuyết phục được nhau tiềm ẩn ngay trong nó những nguy cơ về những quyết sách vội vã, chưa đủ độ “chín”. Như thế, với các ý nghĩa đó, và xét một cách thực chất, tập trung dân chủ cần được quan niệm và trên thực tế như bản chất vốn có của nó đã trở thành một trong những nguyên tắc cốt lõi trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta.
Thứ năm, hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội mang tính chính trị sâu sắc. Ảnh hưởng quyết định của yếu tố chính trị đối với hoạt động của Nghị viện nói chung và hoạt động của các Ủy ban nói riêng là thực tế khách quan và diễn ra khá phổ biến trong hoạt động của Nghị viện hiện nay. Thông thường, ở các nước theo thể chế chính trị đa đảng, các Ủy ban trong Nghị viện có thành phần đảng chính trị khác nhau[20]. Như ở Thụy Điển, nơi Quốc hội có 16 Ủy ban thường trực, Ủy viên các Ủy ban này được bầu chọn theo một phương cách nhất định để cho cơ cấu của mỗi Ủy ban phản ánh tính đại diện của các đảng phái chính trị trong Quốc hội Thụy Điển[21]. Thực tế này là nguyên nhân vì sao không chỉ trong lĩnh vực lập pháp, sự ảnh hưởng của yếu tố đảng chính trị có thể thấy đằng sau hầu hết các sáng kiến của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát[22].  
Hoạt động với tư cách là thành viên Ủy ban, nghị sỹ phải hành động trong khuôn khổ đường lối, chính sách của chính đảng mà mình tham gia; có nghĩa vụ tuân thủ kỷ luật của đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu nói chung và nhiệm vụ của thành viên Ủy ban nói riêng. Về mặt chính trị, đây là điều mà đảng chính trị ở không ít quốc gia sử dụng để bảo đảm sự thống nhất trong đảng. Một số quốc gia thậm chí còn quy định về mặt pháp lý nhằm kiểm soát hoạt động của nghị sỹ thông qua việc xác định những hệ quả của việc vi phạm kỷ luật của đảng chính trị trong hoạt động của Nghị viện. Theo khảo sát gần đây của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU), có 15 quốc gia (chiếm 9,25% trong tổng số 162 quốc gia được khảo sát), thì việc vi phạm kỷ luật đảng sẽ dẫn tới việc chấm dứt tư cách đại biểu của nghị sỹ liên quan; trong đó có 05 quốc gia (Bangladesh, Ấn Độ, Indonesia, Pakistan, Papua New Guinea) đã ban hành quy định pháp lý về việc mất tư cách đại biểu (loss of the mandate) trong trường hợp có sự vi phạm kỷ luật đảng của một nghị sỹ nếu bỏ phiếu trái với chính sách, hay hướng dẫn của đảng mà mình là thành viên[23]. Có những quốc gia còn quy định rõ điều này trong Hiến pháp (ví dụ như Hiến pháp Ấn Độ, Điều 104).
Liên quan đến vấn đề tính chính trị trong hoạt động của hệ thống các Ủy ban của Nghị viện, trên bình diện chung về tổ chức và hoạt động của Nghị viện ở phạm vi toàn cầu, có ý kiến đặt ra những quan ngại về mối quan hệ giữa yếu tố chính trị mà cụ thể là sự kiểm soát có thể là quá mức về mặt chính trị với việc thực thi chức năng đại diện tự do của Nghị viện có thể làm suy giảm việc thực hiện chức năng này của Nghị viện. Trong khuyến nghị của báo cáo nghiên cứu do IPU ấn hành năm 2011, các tác giả nhấn mạnh rằng, việc kiểm soát của đảng chính trị đối với việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của nghị sỹ, bao gồm việc buộc phải tuân thủ kỷ luật đảng, cần được nhìn nhận cơ bản như là một vấn đề nội bộ của đảng chính trị và thành viên của mình; cơ quan lập pháp quốc gia nên tránh việc ban hành các văn bản luật coi việc vi phạm kỷ luật đảng của nghị sỹ là căn cứ cho việc chấm dứt sớm tư cách đại biểu của nghị sỹ[24].
Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, về bản chất, yếu tố chính trị trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thực chất là việc góp phần bảo đảm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng nói chung và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là một thực tế lịch sử khách quan. Là đảng cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói chung, đối với hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nói riêng là vấn đề có tính nguyên tắc, là sự thực hiện thực tế quy định của Hiến pháp. Điều này cũng đòi hỏi hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội phải đóng một vai trò tích cực, là một khâu trong hoạt động của Quốc hội, đóng góp vào quá trình thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật và bảo đảm hiện thực hóa trong cuộc sống. Đảng lãnh đạo hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội bằng đường lối, chủ trương thể hiện trong Cương lĩnh và các văn kiện, nghị quyết của Đảng; các văn kiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư...; thông qua sự lãnh đạo của Đảng đoàn Quốc hội; thông qua vai trò, trách nhiệm của đội ngũ đảng viên là thành viên Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Khác với nhiều nước, ở nước ta, việc bảo đảm tính chính trị ở đây được đặt trong một tổng thể thống nhất với với tính chất đại biểu, đại diện trong hoạt động của Quốc hội cũng như trong hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định rõ và nhấn mạnh tính chất “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” của Đảng ta. Như thế, xét một cách sâu xa về bản chất, trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nói riêng và hệ thống chính trị nói chung của chúng ta không tồn tại “nghịch lý” hay mâu thuẫn giữa yếu tố chính trị và yếu tố đại biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đảng đại diện cho quyền lợi của giai cấp, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, nên chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện ý chí, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân, của dân tộc; muốn có chủ trương, đường lối đúng thì phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, hợp với xu thế của thời đại[25]. Ở cấp độ Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, điều quan trọng như đã từng được đúc rút là Đảng lãnh đạo, nhưng không buông lỏng, không làm thay công việc của Hội đồng, Ủy ban để thực sự phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao của Hội đồng, Ủy ban trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn luật định. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, việc thể chế đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật ngày càng trở thành một yêu cầu có tính nguyên tắc, trọng tâm nếu so sánh với các phương thức lãnh đạo khác của Đảng. Điều này cũng phần nào nói lên vị trí, vai trò hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội với vị trí, vai trò là những cơ quan tham mưu, giúp việc cho Quốc hội - cơ quan thực hiện quyền lập pháp của Nhà nước ta. Mặt khác, từ quy định và thực tế cũng đã cho thấy, ở góc độ tổng quát, “Đảng lãnh đạo để Quốc hội thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật theo hướng dân chủ, thẳng thắn, nâng cao trí tuệ. Đảng đổi mới sự lãnh đạo là yếu tố quan trọng tạo nên những thành công trong hoạt động của Quốc hội”[26]; ở góc độ cụ thể, điều này vẫn còn nguyên ý nghĩa khi đề cập đến hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta./.

 


[1]Trong bài viết này, thuật ngữ “Ủy ban” khi nói về hệ thống các Ủy ban của Quốc hội Việt Nam bao hàm cả Hội đồng Dân tộc.
[2] C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 25, phần II, NXB Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội,1994, tr.259-260.
[3] Xem: Woodrow Wilson, Congressional Government, (Baltimore, the Johns Hopkins University Press, 1981), p. 69. Originally published in 1885.
 
[4]Christopher J.Deering and Steven S.Smith, Committees in Congress, Third Edition, CQ Press, A Division of Congressional Quarterly Inc. Washington, D.C. 2007, p.4. (truy cập từ Internet ngày 10/6/2014)
[5] Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Quốc hội Mỹ hoạt động như thế nào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr. 664
[6]Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Quốc hội Mỹ hoạt động như thế nào, Sđd, tr.365.
[7]Professional Development for Parliamentarians and Staff, Parliamentary Committess, (nguồn Internet, truy cập ngày 03/6/2014)
 
[8]Dự án Từ điển tiếng Việt miễn phí - The Free Vietnamese Dictionary Project
[9]Trung tâm Từ điển học (Vietlex), Từ điển Tiếng Việt 2010, Nxb Đà Nẵng, (In lần thứ ba, có sửa chữa), Hà Nội, 2010, tr.583.
[10]Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013.
[11] Điều 37, Điều 38 Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội được ban hành kèm theo Nghị quyết số 27/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5.
[12]Điều 4 Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội... Tlđd
[13]David M. Olson: “Hoạt động xem xét và giám sát cơ quan hành pháp: Kinh nghiệm ở Nghị viện một số nước Trung và Đông Âu”, dẫn lại từ: Văn phòng Quốc hội (chủ biên): Cơ quan lập pháp và hoạt động giám sát, Hà Nội, 2006, tr.68.
[14]Roger H.Davidson và Walter J.Oleszek: “Quốc hội và các thành viên” (Congress and its members), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.307.
[15]Roger H.Davidson và Walter J.Oleszek: “Quốc hội và các thành viên”, Sđd, tr.308.
[16]Roger H.Davidson và Walter J.Oleszek: “Quốc hội và các thành viên”, Sđd, tr.311.
[17]Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ): “Quốc hội Mỹ hoạt động như thế nào” (How Congress works), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr.352.
[18] Điều 21 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007).
[19]Peder Nielsen, Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội Thụy Điển: Giám sát của Quốc hội do Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội Thụy Điển tiến hành, Kỷ yếu Hội thảo về “Tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội”, từ 29/6/2004 - 01/7/2004, tại Nha Trang, Khánh Hòa, tr.93.
 
[20]Professional Development for Parliamentarians and Staff, Parliamentary Committees, (Nguồn Internet, truy cập ngày 3/6/2014).
[21]Peder Nielsen, Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội Thụy Điển: Giám sát của Quốc hội do Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội Thụy Điển tiến hành, Tlđd tr.89.
[22]Magnus Isberg, chuyên gia Quốc hội Thụy Điển: Giám sát của Quốc hội Thụy Điển, Kỷ yếu Hội thảo về “tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội”, từ 29-6 đến 01/7/2004, tại Nha Trang, Khánh Hòa, tr.52.
[23]Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) (2011): The Impact of political party control over the exercise of the parliamentary mandate,
www.ipu.org (truy cập ngày 3/6/2014).
[24]Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) (2011): The Impact of political party control over the exercise of the parliamentary mandate,
www.ipu.org (truy cập ngày 3/6/2014).
[25]GS.TS Phan Trung Lý, Quốc hội Việt Nam - Tổ chức, hoạt động và đổi mới (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.49-50.
[26]GS,TS. Nguyễn Phú Trọng, Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.191.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17(273), tháng 9/2014)


Thống kê truy cập

33948955

Tổng truy cập