Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

01/08/2014

PGS. TS. NGUYỄN HỮU ĐÔNG

Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Trong hệ thống chính trị của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới hiện nay cũng đều có đảng chính trị. Thông thường, đảng chính trị nào giành được đa số phiếu ủng hộ của cử tri (nhân dân) trong các cuộc bầu cử Quốc hội sẽ trở thành đảng cầm quyền. Điều đó cũng có nghĩa là đảng cầm quyền đã giành được uy tín, sự thuyết phục của xã hội do đã xây dựng được vai trò tiên phong qua cương lĩnh của mình về hệ tư tưởng, lý luận, đồng thời thể hiện được giá trị, đạo đức, niềm tin của xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền cũng không ngoài thông lệ đó. Sau khi thành lập, với tư cách là một lực lượng tiên phong thể hiện qua Cương lĩnh của mình và quá trình đấu tranh gian khổ giành độc lập tự do cho dân tộc, Đảng đã lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa thắng lợi giành chính quyền về tay nhân dân. Với uy tín và sự tín nhiệm của xã hội, của toàn thể nhân dân, Đảng trở thành lực lượng cầm quyền trong suốt gần 70 năm qua.
Untitled_332.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
Đảng cầm quyền là một khái niệm được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Đảng cầm quyền được hiểu là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước bằng các cá nhân đảng viên ưu tú của Đảng để trực tiếp thực hiện quá trình hoạch định và thực thi các chính sách quốc gia. Nói Đảng cầm quyền tức là muốn nói tới cách thức giải quyết mối quan hệ giữa đảng chính trị và nhà nước sau khi một đảng hay liên minh các đảng chính trị giành được vị thế cầm quyền. Nói đảng cầm quyền cũng tức là nói một đảng chính trị hay liên minh các đảng chính trị đã "hóa thân" vào nhà nước để thực hiện vai trò cầm quyền. Khi đó, những đảng viên ưu tú giữ vai trò chủ chốt của đảng sẽ trở thành các "nhà cầm quyền" trong quốc gia đó. Nói "nhà cầm quyền" cao nhất của một quốc gia nào đó, tức là người đó vừa là người có vai trò đứng đầu đảng cầm quyền, vừa là người có vai trò đứng đầu nhà nước. Ở Việt Nam, sau khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh cho rằng, những người như vậy cần phải được nhân dân tín nhiệm lựa chọn, bầu ra với các hình thức khác nhau. Người đã viết: "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy"[1].
Các đảng chính trị khi thực hiện vai trò cầm quyền đều phải sử dụng đến công cụ quyền lực. Nghĩa là các đảng chính trị đều có quyền lực của mình. Quyền lực của đảng cầm quyền là quyền chi phối, định hướng đối với nhà nước để thực hiện cương lĩnh, mục tiêu của đảng đó. Việc chi phối, định hướng đối với nhà nước của đảng cầm quyền để thực hiện mục tiêu, cương lĩnh của đảng được diễn ra theo cách thức nhất định và được gọi là phương thức cầm quyền của đảng. Phương thức cầm quyền của các đảng cầm quyền diễn ra rất đa dạng ở các nước, nhưng nhìn chung được thể hiện qua hai phương thức chính sau đây:
Một là, đảng thực hiện vai trò cầm quyền theo phương thức chủ yếu là thông qua các cá nhân đảng viên ưu tú đứng bên trong nhà nước trực tiếp lãnh đạo và quản lý đất nước
Những đảng viên ưu tú này thường được nhìn nhận là các "nhà cầm quyền" trong bộ máy cầm quyền của quốc gia. Họ vừa là người trực tiếp tham gia xây dựng, ban hành, đồng thời vừa thực thi các quyết định, chính sách của nhà nước tùy theo chức năng nhiệm vụ của mình trong tổ chức bộ máy nhà nước (bộ máy cầm quyền), từ đó mà chi phối, định hướng đối với nhà nước. Những đảng viên này cùng với đảng cầm quyền có quyền lập ra chính phủ. Với tư cách "nhà cầm quyền", họ đều phải tuân thủ pháp luật của quốc gia đó, đồng thời họ cũng bị chi phối bởi quan điểm, định hướng trong cương lĩnh của đảng cầm quyền. Với  phương thức cầm quyền này, có thể hiểu đây là phương thức cầm quyền trực tiếp từ bên trong nhà nước và được áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, tùy theo từng mô hình tổ chức nhà nước cụ thể. Chính vì đảng cầm quyền trực tiếp từ bên trong nhà nước mà phương thức cầm quyền này được các nhà nghiên cứu xác định là đảng đã "hóa thân" vào nhà nước để thực hiện vai trò cầm quyền của mình. Khái niệm "phương thức cầm quyền của Đảng" được biểu hiện cụ thể của thể chế "đảng cầm quyền".
Hai là, đảng thực hiện vai trò cầm quyền theo phương thức chủ yếu bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn, được thông qua trong các nghị quyết đại hội đảng, hội nghị cấp ủy các cấp của đảng tùy theo những nhiệm vụ cụ thể của từng cấp
Cùng với việc những người đứng đầu của đảng cầm quyền ở các cấp đã không "hóa thân" vào nhà nước, tức không giữ vị trí đứng đầu nhà nước, chính quyền để trở thành các "nhà cầm quyền", nên phương thức cầm quyền này được gọi là phương thức cầm quyền gián tiếp, đảng dường như đã đứng từ bên ngoài để chi phối, định hướng đối với nhà nước. Phương thức cầm quyền này chính là cơ sở của việc hình thành nên khái niệm "tập thể lãnh đạo" và được áp dụng ở một số nước có hệ thống chính trị theo mô hình Xô-viết. Đồng thời, khái niệm "cầm quyền" của đảng theo phương thức này được thể hiện qua khái niệm "đảng lãnh đạo nhà nước"; còn khái niệm "phương thức cầm quyền của đảng" được thể hiện qua khái niệm "phương thức đảng lãnh đạo nhà nước". Đây cũng là khái niệm biểu hiện cụ thể của thể chế "Đảng lãnh đạo Nhà nước" ở nước ta.
Đảng ta đã thực hiện vai trò cầm quyền của mình từ ngay sau Cách mạng tháng Tám (1945). Hiến pháp đầu tiên (1946) đã thể hiện khá rõ thể chế "Đảng cầm quyền" ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cách thức cầm quyền của Đảng lại không đáp ứng với thể chế đó, do hoàn cảnh chiến tranh và sự ảnh hưởng của thể chế "đảng lãnh đạo nhà nước" theo mô hình Xô-viết - mô hình thiếu vắng "pháp quyền" trong bộ máy cầm quyền và nền kinh tế thị trường.
Phương thức cầm quyền thứ hai nêu trên, hay phương thức cầm quyền gián tiếp, đứng từ bên ngoài để chi phối, định hướng đối với nhà nước của đảng đã được Đảng ta áp dụng, đặc biệt rõ nhất từ sau Đại hội IV của Đảng năm 1976, khi Hiến pháp năm 1980 ghi rõ trong Điều 4: Đảng "là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội". Khái niệm "cầm quyền" và "phương thức cầm quyền" của Đảng đã ít được nói tới, mà thay vào đó là khái niệm "Đảng lãnh đạo", "Đảng lãnh đạo Nhà nước" và được tiếp tục ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013). Thực tế cho thấy, phương thức cầm quyền gián tiếp, đứng từ bên ngoài mà Đảng ta áp dụng cũng có những mặt mạnh nhất định: Đó là dễ thích ứng trong thời kỳ có chiến tranh; dễ thích ứng với nền kinh tế "chỉ huy", "bao cấp", "khép kín". Nhưng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền thì có khá nhiều bất cập[2], khó khăn và hiệu quả không cao cho việc cầm quyền của Đảng, cụ thể là:
Thứ nhất, phương thức cầm quyền này chưa theo một quy trình mang tính khoa học cao. Bởi do Đảng đứng bên ngoài chi phối, định hướng đối với Nhà nước, nên việc cầm quyền của Đảng dường như chỉ đóng vai trò gián tiếp, "thông qua Nhà nước" là chính. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rằng: "Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước"[3]. Phương thức cầm quyền như vậy đã làm cho tính chịu trách nhiệm của Đảng là không cao trong vai trò của một đảng cầm quyền. Thực tế cho thấy, trong một số trường hợp đã diễn ra việc đổ lỗi trách nhiệm cho nhau giữa các chủ thể là Đảng và Nhà nước, giữa cấp ủy và chính quyền những năm vừa qua.
Ngoài ra, ngay cả việc sử dụng khái niệm "Đảng lãnh đạo Nhà nước" trong quá trình cầm quyền của Đảng cũng cho thấy không thể hiện tính khoa học[4]. Bởi với nghĩa là một động từ, Đảng lãnh đạo được hiểu là một khái niệm không gắn với việc sử dụng quyền lực. Theo V.I. Lê-nin và Hồ Chí Minh, lãnh đạo là "phục vụ" và "làm đày tớ" nhân dân. Như vậy, nếu hiểu đúng nghĩa của khái niệm "Đảng lãnh đạo Nhà nước" thì Đảng phải phục vụ Nhà nước, hay nói cách khác là chính trị phải phục vụ bộ máy nhà nước. Thế nhưng ngược lại, ở nước Nga Xô-viết trước đây, khi đưa ra khái niệm "đảng lãnh đạo nhà nước", Lê-nin cũng đã cảm nhận thấy có điều gì bất cập và có lần đã giải thích rõ rằng, trong mối quan hệ giữa đảng với nhà nước, hay giữa chính trị và bộ máy thì "bộ máy phục vụ chính trị... chứ không phải chính trị phục vụ bộ máy!"[5]. Hơn nữa, thực tế còn cho thấy ở hầu hết các nước cũng đã không sử dụng khái niệm "đảng lãnh đạo nhà nước". Do vậy, nếu sử dụng khái niệm này trong quá trình cầm quyền thì sự chi phối, định hướng của Đảng đối với Nhà nước, chính quyền thực hiện theo cương lĩnh, mục tiêu của mình sẽ có những khó khăn, tính khả thi sẽ không cao. Để khắc phục sự bất cập này, theo chúng tôi, trước hết cần thay đổi cách diễn đạt khái niệm "phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước" hiện nay thành "phương thức cầm quyền của Đảng" cho chuẩn xác với các thuật ngữ thông dụng trên thế giới.
Thứ hai, do Đảng cầm quyền đứng từ bên ngoài chi phối, định hướng đối với Nhà nước, tức là đã tách Đảng và Nhà nước thành hai chủ thể cùng thực hiện vai trò cầm quyền, chỉ khác nhau về chức năng, nên trong nhiều năm qua, mặc dù chúng ta đã cố gắng phân định cụ thể nhưng vẫn không thể khắc phục được sự chồng chéo về chức năng giữa Đảng và Nhà nước. Với phương thức cầm quyền này, dường như chúng ta đã phân biệt chức năng của Đảng chỉ là "lãnh đạo", chức năng của Nhà nước chỉ là "quản lý". Trong khi phương thức cầm quyền thông dụng trên thế giới của đảng chính trị đã không đặt ra vấn đề này. Ở hầu hết các nước, họ không có sự phân biệt giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Chính sự phân biệt này ở nước ta làm cho Đảng, thể hiện như các cấp ủy đảng dường như đã trở thành các chủ thể có quyền "quyết định", còn Nhà nước, thể hiện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan hành chính nhà nước chỉ như là các chủ thể "chấp hành" một cách thụ động. Điều này làm cho Đảng dường như đã đứng trên Nhà nước, "áp đặt" từ bên trên của Đảng đối với Nhà nước trong vai trò cầm quyền của mình. Ông Nguyễn Quốc Thước, nguyên đại biểu Quốc hội đã có lần thẳng thắn nêu ra điều bất cập về tình trạng bị động của bản thân mình khi phải biểu quyết trong Quốc hội thông qua các nghị quyết theo định hướng của Đảng như sau: "Không bỏ phiếu thì không được mà bỏ phiếu thuận rồi thì về nhà ăn không ngon, ngủ không yên, vì biết có điều gì không đúng. Tôn trọng quyền của Quốc hội, biết lắng nghe ý kiến của dân để hoàn thiện những chính sách của mình chỉ giúp cho Đảng nâng tầm lãnh đạo và được lòng dân"[6].
Thứ ba, từ việc có hai chủ thể là Đảng và Nhà nước cùng cầm quyền trong phương thức cầm quyền này đã dẫn đến thực tế dường như ở nước ta là "có hai nhà nước trong một đất nước". Điều đó đã tạo ra sự cồng kềnh của bộ máy cầm quyền trong hệ thống chính trị; phát sinh nhiều cơ quan, tổ chức có cùng chức năng; thiếu tính chính danh về sự cầm quyền của Đảng, vì những người đứng đầu Đảng, các tổ chức đảng không phải là những "nhà cầm quyền" - người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, và như vậy, tất yếu họ sẽ là những người đứng ngoài phạm vi các quy định mang tính pháp lý trong nhiều trường hợp xảy ra.
Với những bất cập và có nhiều khó khăn trong việc thực hiện vai trò cầm quyền của Đảng từ thực tế phương thức cầm quyền đã nêu trên, rất cần thiết phải có sự đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng giai đoạn hiện nay. Chúng tôi cho rằng, cần đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng theo phương thức gián tiếp từ bên ngoài nhà nước hiện nay sang cầm quyền trực tiếp từ bên trong nhà nước như đã được phân tích. Phương thức cầm quyền trực tiếp từ bên trong nhà nước là phù hợp với thông lệ chung của các nước trên thế giới. Cần nhìn nhận rằng, phương thức cầm quyền của đảng chính trị khi đảng đó trở thành đảng cầm quyền chỉ là cách thức giải quyết mang tính kỹ thuật mối quan hệ giữa đảng chính trị đó với nhà nước sau khi đảng đã giành được vị thế cầm quyền mà thôi. Để đổi mới phương thức cầm quyền theo hướng này, cần phải thực hiện các yêu cầu mang tính giải pháp sau:
Một là, cần nghiên cứu, xác định rõ và thiết lập được mô hình tổ chức nhà nước (mô hình chính thể) phù hợp với thực tiễn ở nước ta. Bởi phương thức cầm quyền của Đảng có liên quan chặt chẽ với mô hình tổ chức nhà nước. Chỉ khi nào xác định đúng, phù hợp mô hình tổ chức nhà nước, chúng ta mới có thể có phương thức cầm quyền tối ưu, từ đó đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Trên thế giới, hiện có ba mô hình chính thể chủ yếu và được áp dụng với những biến thể nhất định tùy theo từng nước: mô hình đại nghị, với quyền hành pháp và quyền lập pháp gắn kết với nhau và quyền lực chính trị tập trung trong tay thủ tướng; mô hình tổng thống, nơi quyền hành pháp và quyền lập pháp tách biệt nhau, quyền hành pháp tập trung trong tay tổng thống; mô hình hỗn hợp (lưỡng tính), nơi cả tổng thống và thủ tướng đều có quyền hành pháp. Nước ta đang áp dụng mô hình hỗn hợp và có phần nghiêng về mô hình đại nghị nhiều hơn. Bởi trong thực tế, Đảng ta có đa số trong Quốc hội và có quyền thành lập chính phủ là phản ánh đúng nguyên tắc của mô hình đại nghị. Tuy nhiên, người đứng đầu Đảng lại không nắm giữ chức Thủ tướng như theo mô hình đại nghị. Trong khi đó, mặc dù hiện nay chức danh Chủ tịch nước đã được xác định đầy đủ hơn về thẩm quyền, nhưng chức danh đó vẫn chưa thật có thực quyền, chưa thể hiện tính "chính danh" của Đảng cầm quyền, bởi chức danh này chưa phải do người đứng đầu của Đảng nắm giữ - một "nhà cầm quyền" có vị trí cao nhất đúng như trong các thể chế "đảng cầm quyền".
Hai là, cần nghiên cứu và thực hiện việc nhất thể hóa thẩm quyền trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi các chính sách về phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước[7]. Cùng với đó là nhất thể hóa các chức danh người đứng đầu và một số tổ chức của Đảng và Nhà nước mà Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã nêu ra. Đây là một trong các điều kiện cần thiết để đảm bảo cho việc cầm quyền của Đảng từ bên trong Nhà nước, đồng thời xác định rõ tính chính danh của "Đảng cầm quyền". Tránh tình trạng như vừa qua, khi Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm (thực chất là xem xét trách nhiệm) của những người đại diện cho Đảng, đồng thời là đại diện cho dân giữ vai trò các "nhà cầm quyền" thì người đứng đầu Đảng lại nằm ngoài danh sách. Đây chính là "kẽ hở" của cơ chế do chưa có Luật hoạt động của Đảng, từ đó dẫn đến khó khăn trong xử lý trách nhiệm của người đứng đầu Đảng, tổ chức đảng khi mắc các sai phạm có liên quan đến pháp luật nhà nước.
Cũng cần phải nhận thức đúng vấn đề nhất thể hóa này. Đây không đơn thuần chỉ như là một sự "nhập lại" làm một của các chức danh, các tổ chức đó. Thực hiện việc nhất thể hóa như vậy phải được coi là một trong các giải pháp quan trọng của đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay. Thực hiện việc nhất thể hóa cần phải theo một quy trình khoa học, gắn với việc hoàn thiện mô hình tổ chức nhà nước như đã nêu trên; đồng thời gắn với việc đảm bảo dân chủ trong công tác cán bộ, như bầu cử, thi tuyển, quy hoạch, điều động, bố trí  cán bộ và làm tinh gọn bộ máy cầm quyền trong hệ thống chính trị.
Ba là, cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực của bộ máy cầm quyền trong hệ thống chính trị đáp ứng với yêu cầu của đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng, đồng thời đáp ứng với điều kiện đặc thù chỉ có một đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng cần gắn liền với nghiên cứu việc đổi mới, hoàn thiện mô hình chính thể và nhất thể hóa người đứng đầu, một số tổ chức của Đảng và Nhà nước. Do vậy, việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực cũng được coi là một trong các yêu cầu rất cần thiết trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng. Để thực hiện yêu cầu này, trước hết cần đổi mới mô hình Ủy ban Kiểm tra của Đảng do cấp ủy bầu hiện nay thành Ủy ban kiểm tra giám sát và kỷ luật của Đảng do Đại hội bầu[8]. Ngoài ra, cần nghiên cứu, xây dựng các cơ chế kiểm soát quyền lực, như: cơ chế kiểm soát quyền lực giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; cơ chế bầu cử, bãi miễn các đại biểu dân cử; đặc biệt là cơ chế bầu cử, kiểm soát đối với người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước; cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước.
Bốn là, cùng với việc đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng, cần thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội giai đoạn hiện nay. Đây là một yêu cầu rất cần thiết trong quá trình đổi mới chính trị nói chung ở nước ta hiện nay. Bởi việc đổi mới này sẽ giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và xã hội. Còn thực hiện đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng chính là để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Hiện nay chúng ta vẫn đang sử dụng chung một khái niệm "lãnh đạo" để khẳng định vai trò quyền lực trong việc chi phối, định hướng của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, như đã được ghi trong Điều 4 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013): "Đảng... là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội". Chúng tôi cho rằng, cách diễn đạt như vậy là không mang tính khoa học. Với nghĩa là một động từ, "lãnh đạo" là khái niệm chỉ sự hoạt động không gắn với việc sử dụng quyền lực. Do vậy, "Đảng lãnh đạo Nhà nước" là một thể chế khó đáp ứng với mong muốn của chủ thể lãnh đạo là Đảng. Hàng trăm nghị quyết của Đảng trong những năm vừa qua thường nhiều lần nhấn mạnh đến việc "tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội" đã phần nào chỉ ra sự bất cập của thể chế này trong thực tế. Ngoài ra, nếu chúng ta hiểu khái niệm "lãnh đạo" là phải sử dụng quyền lực, thì "Đảng lãnh đạo xã hội" sẽ làm cho Đảng thực sự đang "đứng trên xã hội".
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ thường sử dụng các khái niệm "Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân", "Đảng lãnh đạo nhân dân", chứ không sử dụng các khái niệm "Đảng lãnh đạo Nhà nước", "Đảng lãnh đạo chính quyền", "Đảng lãnh đạo Mặt trận", "Đảng lãnh đạo xã hội" như hiện nay chúng ta đang sử dụng. Do vậy, cùng với đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng, cần phải nhận thức rõ và thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội hiện nay. Phương thức lãnh đạo của Đảng là rất quan trọng, nhưng khi phương thức lãnh đạo của Đảng không rõ, thiếu tính khoa học, không đúng đắn sẽ làm cho sự lãnh đạo của Đảng kém hiệu quả. Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ: "Phương thức lãnh đạo quần chúng vô cùng quan trọng, Đảng phải hết sức quan tâm"[9].
 Phương thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội cần phải được nhìn nhận và đổi mới theo hai cách thức chủ yếu dưới đây:
Thứ nhất, phương thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội cần phải thực hiện bằng sự thuyết phục của Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn được thông qua trong các nghị quyết đại hội của Đảng, tùy theo nhiệm vụ tương ứng với các cấp của tổ chức Mặt trận.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết là ở Cương lĩnh. Cương lĩnh của Đảng bao giờ cũng được vạch ra trong Đại hội Đảng toàn quốc. Ngay trong Cương lĩnh, Đảng cũng cần phải đề ra cả phương thức hay phương pháp, cách thức lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Đảng cương là văn kiện nó quy định: tính chất của Đảng, mục đích đấu tranh và đường lối cách mạng của Đảng, phương pháp lãnh đạo cách mạng của Đảng"[10].
Sự lãnh đạo của Đảng bằng sự thuyết phục của Cương lĩnh, các chủ trương lớn có nghĩa là, các nghị quyết được thông qua trong các đại hội của Đảng chỉ có ý nghĩa như một văn bản mang tính quyền lực bắt buộc các tổ chức đảng, mọi đảng viên trong hệ thống chính trị và xã hội phải thực hiện; còn đối với mọi công dân trong xã hội nói chung không phải là đảng viên thì các nghị quyết đó là văn bản không mang tính bắt buộc họ phải thực hiện. Để đảm bảo sự thuyết phục của Cương lĩnh, các chủ trương lớn của Đảng đối với xã hội và mỗi công dân không phải là đảng viên, thì Cương lĩnh, các chủ trương lớn đó được đề ra cần phải đúng đắn, tức hợp với lòng dân, được sự đồng thuận của nhân dân. Việc đảm bảo cho Cương lĩnh, các chủ trương của Đảng đúng đắn có vai trò rất lớn để thuyết phục được quần chúng nhân dân, của cả xã hội.
Do vậy, cần phải coi trọng việc xây dựng Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng đảm bảo một cách đúng đắn, hợp lòng dân là một nhiệm vụ quan trọng hiện nay để "giành được dân", tức nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, từ đó Đảng mới có thể đạt được hiệu quả cao về sự lãnh đạo của mình.
Về vấn đề này, V.I.Lê-nin cũng đã từng khẳng định: "Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình"[11]. Sinh thời, Hồ Chí Minh cũng từng nhắc nhở rằng, các nghị quyết của Đảng rất cần phải đảm bảo sự đúng đắn. Theo Người, muốn để cho các nghị quyết của Đảng có sự đúng đắn, rất cần thiết phải lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức xã hội, của đông đảo các tầng lớp nhân dân khi xây dựng các nghị quyết đó. Người còn yêu cầu các tổ chức đảng, mỗi cán bộ đảng viên phải thực hành nguyên tắc: "Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng"; "Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận... Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa"[12].
Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân để xây dựng Cương lĩnh, các chủ trương, đường lối của Đảng qua các lần đại hội là vấn đề quan trọng và cần thiết. Chỉ có thực hành dân chủ một cách rộng rãi, đầy đủ, Đảng mới có thể thu hút được những ý kiến đóng góp tâm huyết của nhân dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức trong xã hội để xây dựng các nghị quyết. Thực hành dân chủ rộng rãi là yếu tố rất cần thiết để tạo ra không khí cởi mở, làm cho mọi người dân dám nói, dám đóng góp chân thành, thẳng thắn đối với các chủ trương của Đảng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã cho rằng, chủ trương, đường lối muốn đúng đắn thì không những chủ trương, đường lối đó phải được xây dựng dựa trên các căn cứ khoa học, phù hợp với thực tiễn của cuộc sống mà điều quan trọng hơn là các tổ chức Đảng, những người lãnh đạo của Đảng còn phải biết cách, hay "khéo" lấy ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân để từ đó các chủ trương, đường lối mới hợp với lòng dân, thực sự phục vụ nhân dân. Người viết: "Phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng"[13].
Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội cần được thực hiện thông qua hoạt động lãnh đạo của các cá nhân đảng viên[14] trong xã hội, đặc biệt là các đảng viên ưu tú của Đảng trong các Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các thành viên trong Mặt trận như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn, Hội Cựu chiến binh v.v..,tùy theo vị trí, nhiệm vụ, đặc điểm công việc của mỗi đảng viên.
Hoạt động lãnh đạo được coi là hoạt động chủ yếu nhất của những người đảng viên, đặc biệt là người lãnh đạo - người có chức trách nhất định trong các tổ chức, cơ quan, đơn vị nói chung cũng như trong tổ chức Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nói riêng.
Các cá nhân đảng viên ưu tú của Đảng cần phải trở thành những người đứng đầu các tổ chức như: Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ tịch Liên đoàn lao động v.v.. Những người đứng đầu này có vai trò rất quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận nói chung và các tổ chức thành viên của Mặt trận nói riêng.
Những người đứng đầu này phải là những người có uy tín của Đảng, được Đảng giới thiệu. Theo cách hiểu hiện nay thì họ phải là các ủy viên Ban thường vụ của Đảng ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đồng thời, những người đứng đầu này cũng phải là những người có uy tín nhất trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận ở các cấp. Điều đó có nghĩa những người này cần phải được bầu ra một cách dân chủ trong các tổ chức đó. Riêng đối với Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp thì việc tiến hành hiệp thương cử ra cũng cần phải bảo đảm dân chủ, tức không có sự áp đặt dưới bất cứ một hình thức nào của các tổ chức Đảng, mà phải được sự đồng thuận, thực sự tín nhiệm của các thành viên trong Mặt trận. Điều đó cho thấy, rất cần đến không chỉ có uy tín của những người đảng viên khi đảm nhận vai trò đứng đầu Chủ tịch các Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, mà còn rất cần đến cả uy tín của toàn Đảng nói chung, cũng như uy tín của các tổ chức đảng nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với những người đảng viên ưu tú giữ vai trò là những người lãnh đạo, đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên trong Mặt trận, còn có nhiều đảng viên khác đang hoạt động trong các tổ chức đó với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau; ngoài ra còn có nhiều các đảng viên khác chỉ bình thường là một công dân trong xã hội. Đây chính là những cá nhân đảng viên cùng với những đảng viên ưu tú thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội hiện nay.
Cần phải nhận thức rõ rằng, hoạt động lãnh đạo của mọi đảng viên nói chung được thể hiện ở ngay các hoạt động đa dạng, có khi rất bình thường của họ. Các hoạt động này là cốt để "làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu"[15], để người dân một lòng đi theo Đảng. Điều đó cho thấy, mọi đảng viên của Đảng trong xã hội hiện nay, bất kỳ làm việc gì, ở đâu, kể cả khi đã nghỉ hưu, tuổi già sức yếu, thậm chí đang nằm trên giường bệnh sống những ngày cuối cùng của đời mình... đều có thể thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo với các hình thức, mức độ nhất định tùy từng vị trí công việc, lĩnh vực hoạt động, sức khỏe của mình.  
Việc nhận thức và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng như được phân tích ở trên là một yêu cầu rất cần thiết. Chính việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó gắn liền với tăng cường công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội... được coi là một trong các giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách thiết thực nhất, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã hội giai đoạn hiện nay./.

 


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1995, tr.218-219.
 
[2]Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, Đổi mới mô hình "Đảng lãnh đạo Nhà nước" ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 20 (228) tháng 10/2012.
 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2011, tr. 144.
 
[4] Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, Đảng lãnh đạo Nhà nước và vấn đề hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 23/9/2013.
[5] V.I.Lênin: Toàn tập,  t. 43, Nxb Tiến bộ, M., 1977,  tr. 87, 447.
 
[6]Xem: http://m.vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/120120/nguy-co-thoai-hoa-tu-viec-khong-dam-noi.html, ngày 8/5/ 2013.
 
[7]Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, "Đảng hóa thân vào Nhà nước" trong đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng ta, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 17 (249)/ Tháng 9/2013.
[8]Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, Đổi mới mô hình "Đảng lãnh đạo Nhà nước" ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 20 (228) tháng 10/2012.
 
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 564.
 
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 236.
[11] V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 208.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 297.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 298.
[14] Xem thêm: Nguyễn Hữu Đổng, Quan điểm của V.I.Lênin về hoạt động lãnh đạo của người đảng viên cộng sản, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 27/5/2013.
 
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 525.
 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16(272), tháng 8/2014)


Thống kê truy cập

33949972

Tổng truy cập