Hiến pháp năm 2013 với chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự

01/08/2014

TS. PHẠM VĂN HÙNG

Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn phòng Quốc hội.

Trong sự vận hành của quyền lực nhà nước, việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự là rất nghiêm khắc, các quyết định nếu không có công lý sẽ dẫn đến việc tước đoạt quyền tự do, thậm chí tước đoạt tính mạng con người một cách oan uổng. Với việc ban hành Hiến pháp 2013, điều mà người dân cần biết là trong trường hợp phải rơi vào vòng tố tụng thì Hiến pháp đã có các quy định nào nhằm bảo vệ phẩm giá vốn có của một con người? Bài viết phân tích các giá trị tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 khi quy định bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự. 
Untitled_340.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Tòa án - cơ quan thực hành quyền tư pháp, thành công lớn của các nhà lập hiến      
Đã nhiều thập kỷ qua, biết bao nhân tài, trí lực bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận, hội thảo miên man để tìm ra câu trả lời thế nào là quyền tư pháp? cơ quan tư pháp là cơ quan nào? hoạt động tư pháp do ai thực hiện?[1]. Tuy nhiên, với quy định ở Điều 102 Hiến pháp năm 2013 “Tòa án nhân dân  (TAND) là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, thì câu trả lời đã rõ: Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Các cơ quan tiến hành tố tụng khác chỉ tham gia thực hiện quyền tư pháp. Cũng có thể ai đó còn luyến tiếc với quan niệm trước đây để đặt câu hỏi tiếp: Cơ quan điều tra thuộc quyền lực nào? Viện kiểm sát nhân dân (KSND) thuộc quyền lực nào? Cơ quan thi hành án hình sự thuộc quyền lực nào? Trả lời sự luyến tiếc này lại phải xem tiếp quy định của Hiến pháp về các thiết chế quyền lực khác: Quốc hội thực hiện quyền quyền lập hiến, quyền lập pháp[2], Chính phủ thực hiện quyền hành pháp[3]. Ngoài ra Hiến pháp năm 2013 còn quy định về các thiết chế độc lập như Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước. Có thể mỗi thiết chế nhà nước vẫn có những hoạt động mang tính công đoạn, có liên quan đến thiết chế khác, nhưng những hoạt động đó không thể thay thế, can thiệp vào thiết chế “chính chủ” của mỗi loại quyền lực. Chính phủ là cơ quan soạn thảo luật nhưng không thể coi đó là cơ quan lập pháp. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với TAND tối cao nhưng không vì thế mà nghĩ rằng Quốc hội thực hiện quyền tư pháp. Chỉ có Tòa án mới được Hiến pháp trao cho nhiệm vụ xét xử, thực hành quyền tư pháp. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định “bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN”[4] là nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án thì Hiến pháp năm 2013 đã có sự thay đổi căn bản, theo đó “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”[5] mới là nhiệm hàng đầu của Tòa án so với các nhiệm vụ khác. Bảo vệ công lý là bảo vệ sự công bằng và lẽ phải. Bảo vệ quyền con người là bảo vệ những quyền mà như Hồ Chí Minh đã viện dẫn và khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Sự thay đổi, minh định này có ý nghĩa rất lớn đến việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, cho phép người dân có thể viện dẫn khởi kiện đến Tòa án trong những sự kiện cụ thể khi cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Quyết định của các cơ quan nhà nước ngoài Tòa án chưa phải là giới hạn cuối cùng của công lý. Một quan chức hành chính có thể bị kiện nếu ban hành quyết định sai mà vẫn ngang nhiên công bố quyết định của mình là công lý. Một đại biểu dân cử có thể bị mất tín nhiệm trước cử tri nếu có hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Là cơ quan thực hành quyền tư pháp, Tòa án không chỉ giới hạn thực hành quyền tư pháp trong khi xét xử mà cả trước và sau khi xét xử. Tư pháp hình sự là một bộ phận quan trọng nhất của quyền tư pháp nên Tòa án càng có điều kiện thể hiện rõ hơn vị trí, vai trò trong cơ chế vận hành của quyền lực này. Trong không ít trường hợp, khi xét xử vụ án hình sự, Tòa án đã giải quyết luôn cả vấn đề dân sự hoặc kiến nghị các cơ quan hành chính áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa vi phạm pháp luật. Đó cũng là lý do vì sao Hiến pháp chỉ quy định bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự, còn việc bảo đảm quyền con người trong các lĩnh vực hoạt động khác của quyền tư pháp (vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế) sẽ được quy định trong các đạo luật chuyên ngành. Có thể khẳng định, việc Hiến pháp năm 2013 ghi nhận TAND là cơ quan xét xử, thực hành quyền tư pháp là thành công lớn nhất của các nhà lập hiến. Đây là nền tảng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, là bức trường thành vững chắc để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong thời kỳ mới. Với việc quy định Tòa án là cơ quan thực hành quyền tư pháp, rồi đây sẽ phải có sự điều chỉnh giao thêm thẩm quyền cho Tòa án phán quyết đối với nhiều hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời giám sát các quyết định áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người do các cơ quan ngoài Tòa án thực hiện.
2. Nội dung chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự    
Bảo đảm sự đúng đắn trong việc bắt người
Bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền quan trọng nhất của con người được quy định trong Hiến pháp[6]. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng trao cho Nhà nước thực hiện việc bắt giữ người trong những trường hợp cần ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc bắt người nhằm mục đích phục vụ cho việc điều tra tội phạm. Hiến pháp năm 2013 quy định “ Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện KSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”[7]. Đây là sự kế thừa các giá trị tiến bộ qua các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992[8]. Tuy nhiên, việc kế thừa này cũng gặp không ít trở ngại bởi lẽ trong quá trình soạn thảo Hiến pháp đã có lúc quy định này đã bị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đưa ra khỏi dự thảo[9]. Quy định bảo đảm sự đúng đắn về bắt người trong Hiến pháp 2013 đã thể hiện đúng mong đợi của nhân dân, thể hiện sự sáng suốt, mẫn tiệp của các vị đại biểu Quốc hội, không thể không bảo đảm quyền tư pháp hình sự trong việc bắt người ở tầng hiến định. Bất kể ở cấp nào, sai sót trong việc bắt người nếu xảy ra phải bị xem xét trách nhiệm chính trị trước hết ở việc vi phạm Hiến pháp. Việc kế thừa quy định này trong Hiến pháp đòi hỏi phải nâng cao năng lực, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các cán bộ có thẩm quyền trong việc bắt người, phòng ngừa sai sót xảy ra.
Đáng chú ý là so với Hiến pháp 1992 quy định “việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”[10] thì Hiến pháp năm 2013 có sự thay đổi mang tính đột phá, đã quy định “Việc bắt, giam giữ người do luật định”. Chỉ thay đổi cụm từ “đúng pháp luật” bằng cụm từ “do luật định” đã phản ánh giá trị cao cả của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, một nhà nước phải thượng tôn giá trị của các đạo luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nếu trở lại lịch sử tư pháp hình sự nước nhà trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) thì không ít việc bắt người được thực hiện theo quyết định của cơ quan hành chính[11]. Từ ngày Hiến pháp 2013 có hiệu lực, chỉ có cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân là Quốc hội mới có quyền quy định việc hạn chế quyền tự do của công dân. Việc ban hành các văn bản dưới luật để quy định việc bắt giữ người phải coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người. Việc quy định bảo đảm sự đúng đắn trong việc bắt người cũng là một thành tựu lớn trong nền lập hiến của nước nhà, góp phần bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.   
Bảo đảm không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình 
Đấu tranh ngăn ngừa và chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ của Nhà nước mà trực tiếp là các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử chỉ được áp dụng các biện pháp hợp pháp do Bộ luật TTHS quy định. Để phòng ngừa những hành vi quá lạm, vi phạm quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp năm 1992 quy định “nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”[12].      
Kế thừa Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”[13]. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có quy định bổ sung hai hành vi “tra tấn, bạo lực” là những hành vi khá rõ về hình thức biểu hiện bị nghiêm cấm trong lĩnh vực bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự. Theo quy định này, các hành vi cụ thể như lăng mạ, đe dọa, đánh đập đối với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay người đang chấp hành hình phạt tù, gây cho họ đau đớn, đau khổ nghiêm trọng về thể xác, tinh thần là các hành vi vi phạm quyền con người. Các hành vi khác như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, ăn cơm nhạt, không cho ngủ, giam trong buồng tối, xét hỏi suốt ngày đêm gây cho người bị giam giữ căng thẳng tột độ, bắt đứng hoặc quỳ khi hỏi cung cũng đều là hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, vi phạm quyền con người. Việc quy định bảo đảm không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình trong tư pháp hình sự có ý nghĩa lớn mang tính phòng ngừa cao của các nhà lập hiến, làm cơ sở cho việc xử lý vi phạm quyền con người trong hoạt động tư pháp hình sự. Mặt khác, quy định này cũng thể hiện sự tận tâm của Nhà nước Việt Nam đối với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, đặc biệt là Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984 (Việt Nam gia nhập năm 2013). Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng đã quy định các tội phạm: Tội dùng nhục hình[14], tội bức cung[15] theo đó, các chủ thể của tội phạm chỉ có thể là những người được giao nhiệm vụ liên quan đến người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù.                                       
Bảo đảm sự đúng đắn khi buộc tội
Buộc tội là chức năng của Nhà nước, tạo tiền đề cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo Bộ luật TTHS, khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra. Hồ sơ vụ án chuyển sang Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát ra cáo trạng. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng người bị khởi tố bị can đã phạm tội thì kết luận điều tra, cáo trạng đều ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật Hình sự áp dụng. Trong một thời gian dài trước kia, khi bị đưa ra xét xử, người bị truy tố (bị can bị tạm giam) đứng trước vành móng ngựa thường phải mặc quần áo sọc của phạm nhân. Người bị khởi tố, tạm giam, truy tố thường bị xã hội kỳ thị, nhìn nhận như người phạm tội. Điều này còn có nguyên nhân từ quan niệm là đã bị khởi tố, truy tố, bị xét xử là có tội và hậu quả trước hết là phải chịu sự định kiến, kỳ thị nặng nề của xã hội.
Với quan điểm đổi mới trong tư pháp hình sự, bảo đảm tốt hơn quyền con người ngay cả trong trường hợp họ có dấu hiệu phạm tội, Hiến pháp năm 2013 quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[16]. Với quy định này, nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS được nâng lên tầm hiến định. Đây là điểm mới rất tiến bộ của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Như vậy, với quy định về bảo đảm sự đúng đắn khi buộc tội, người bị khởi tố bị can, bị tạm giam, bị kết luận điều tra, bị truy tố vẫn được coi là những con người bình thường. Trường hợp họ bị tạm giữ, tạm giam thì được hưởng quy chế pháp lý riêng khác với người đang thi hành án trong trại giam (phạm nhân). Khi phải ra tòa, họ vẫn được mặc trang phục như con người bình thường. Chỉ khi nào có bản án có hiệu lực pháp luật họ mới bị coi là có tội. Việc coi họ là người không có tội cho đến khi bị xét xử còn tạo điều kiện cho Tòa án có được sự đánh giá công tâm, khách quan, không phụ thuộc vào hồ sơ vụ án đã được lập từ trước. Với quy định này, một lần nữa, Hiến pháp long trọng tuyên bố: Chỉ có Tòa án mới là nơi nhân danh công lý để phán quyết đối với tự do của con người.      
Bảo đảm được xét xử kịp thời, công bằng, công khai
Hiến pháp 2013 quy định “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai”[17]. Đây là nội dung mới của Hiến pháp 2013 so với các bản Hiến pháp trước đây, là một bước tiến mới trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Buộc tội là chức năng của Nhà nước đối với người phạm tội, song không phải là bằng bất cứ giá nào để loại bỏ tất cả các giá trị đời sống dân sự của con người, nhất là đối với người bị tạm giam chờ thời gian đưa ra xét xử. Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội nhưng trực tiếp nhất vẫn là các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án. Vì vậy, Bộ luật TTHS đã trao cho các cơ quan này thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn nghiên cứu hồ sơ để đưa vụ án ra xét xử cũng đã được quy định theo các mức khác nhau đối với mỗi loại tội phạm. Quy định mới của Hiến pháp về xét xử kịp thời sẽ đặt ra yêu cầu mới đối với các cơ quan tiến hành TTHS. Dưới góc độ bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự, việc thực hiện kéo dài tối đa thời gian điều tra, truy tố, xét xử, nhất là thực hiện thời gian tối đa tạm giam chờ xét xử sẽ không được khuyến khích. Việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung như một hiện tượng phổ biến, nhất là đối với Tòa án là cơ quan thực hành quyền tư pháp, bảo vệ công lý mà trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, tìm kiếm sự thống nhất đường lối xử lý theo kiểu “ba bộ đồng tình” là không thích hợp. Việc để kéo dài các thời hạn tố tụng, nhất là thời hạn tạm giam dù bất kỳ lý do gì đều ảnh hưởng đến đời sống của con người[18]. Liên quan đến vấn đề này, không ai có thể diễn tả rõ hơn tâm trạng của con người phải ở trong nhà giam như lãnh tụ Hồ Chí Minh khi Người bị giam giữ trong nhà tù của chính quyền Quốc dân đảng. Người đã viết trong Nhật ký trong tù “một ngày tù nghìn thu ở ngoài”. Sau này, khi trở thành Chủ tịch nước, trong hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Người còn căn dặn: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ”[19]. Như vậy, Tòa án xét xử kịp thời đối với người bị buộc tội là một yêu cầu mới mang tầm hiến định cũng là góp phần bảo vệ quyền con người. Trong hệ thống TTHS của ta, Tòa án muốn xét xử kịp thời thì trước hết việc điều tra, truy tố phải kịp thời. Do đó, việc để quá hạn tạm giam, quá hạn điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.      
Xét xử công bằng là tiền đề để bảo vệ công lý và bảo vệ quyền con người về tư pháp hình sự. Nguyên tắc này đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên[20]. Ở Việt Nam, nguyên tắc công bằng trong xét xử chưa được đề cập đúng mức và được lồng ghép trong một số nguyên tắc cơ bản của Bộ luật TTHS như bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật[21], xác nhận sự thật vụ án[22], bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTHS[23]. Nguyên tắc xét xử công bằng được đưa vào Hiến pháp năm 2013 là một nỗ lực của các nhà lập hiến, là sự vận dụng tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh đối với công tác xét xử. Người đã từng chỉ ra: trong công tác xử án phải “công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”[24]. Xét xử công bằng rồi đây phải được triển khai trở thành nguyên tắc quan trọng của Bộ luật TTHS và trong hoạt động của ngành Tòa án. Dưới góc độ bảo vệ quyền con người thì chỉ có xét xử công bằng, không thiên vị, tư thù, tư oán thì phán quyết của Tòa án mới được coi là nhân danh công lý. Mọi sự phân biệt trong xét xử về nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, quốc tịch hoặc các biểu hiện khác thể hiện sự kỳ thị, thiếu khách quan, thiếu vô tư đều bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.       
Xét xử công khai đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992[25], được coi là nguyên tắc trong hoạt động của Tòa án, của Bộ luật TTHS[26], nay còn được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận là một quyền con người. Việc xét xử công khai và công khai việc tuyên án trong trường hợp phải xét xử kín thể hiện sự minh bạch trong hoạt động của Tòa án, bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án sẽ phát huy tối đa giá trị tuyên truyền, giáo dục xã hội, thu hút các giai tầng xã hội tham gia đấu tranh ngăn ngừa và chống tội pham. Mặt khác, công khai xét xử còn tạo điều kiện để người bị truy tố có cơ hội trực tiếp nói lời tự bào chữa trước Tòa án và cộng đồng các giai tầng tham dự phiên tòa, tạo điều kiện cho nhân dân, các cơ quan báo chí giám sát hoạt động của Tòa án, nâng cao tinh thần trách nhiệm của Tòa án trước nhân dân. Việc đặt ra các quy định có nội dung gây khó khăn, ngăn cản người dân đến tham dự phiên tòa công khai hoặc không công khai các quyết định của Tòa án trong các vụ xét xử kín là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.
Bảo đảm không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
Hiến pháp năm 2013 quy định: “không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”[27]. Đây là nguyên tắc tiến bộ và nhân đạo đã được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam là thành viên[28]. Trong các Hiến pháp trước đây và Bộ luật TTHS chưa ghi nhận nguyên tắc này, nhưng trong thực tiễn hoạt động, các cơ quan tiến hành tố tụng đã từng phải xử lý vụ án có liên quan đến nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm quy định trong Hiến pháp năm 2013 là một bảo đảm quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, mang tính nhân đạo sâu sắc. Trong mối quan hệ giữa cá nhân con người với Nhà nước khi bị điều chỉnh bằng luật hình sự thì đó là quan hệ bình đẳng. Dù Nhà nước có bị “nhầm lẫn” bỏ qua những tình tiết có thể làm thay đổi tình trạng đời sống đối với cá nhân con người thì sau khi Tòa án đã kết tội, bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Nhà nước phải chấp nhận cũng như người phạm tội đã phải chấp hành bản án có hiệu lực pháp luật mặc dù họ không mong muốn. Nhà nước không nên và không thể “nghĩ lại” để tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự lần nữa. Điều này góp phần ổn định đời sống dân sự của con người, không bị nguy cơ rình rập đeo đuổi từ phía hình phạt của Nhà nước. Điều quan trọng hơn, việc quy định không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm còn góp phần xây dựng niềm tin vào công lý của người dân đối với Tòa án, bởi lẽ công lý chỉ phát lộ một lần qua xét xử, công lý không thể phát lộ qua lần xét xử thứ hai đối với một tội phạm. Với quy định mới của Hiến pháp năm 2013, việc kết án hai lần đối với một tội phạm sẽ bị coi là sự trả thù, bất bình đẳng và vi phạm Hiến pháp.                                                    
Bảo đảm quyền bào chữa
Quy định về quyền bào chữa đã có ở các Hiến pháp trước đây[29]. Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể hơn “người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”[30]; “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích của hợp pháp của đương sự được bảo đảm”[31]
So sánh với các Hiến pháp trước đây, quy định bảo đảm về quyền bào chữa trong Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới rất quan trọng. Các Hiến pháp trước đây quy định quyền bào chữa thường chỉ đặt gắn liền với quy định về Tòa án và được hiểu thuần túy là nguyên tắc hoạt động của Tòa án hoặc nguyên tắc trong TTHS. Trong Bộ luật TTHS cũng có các quy định về quyền bào chữa và cơ chế thực hiện quyền bào chữa[32], nhưng trên thực tế, việc thực hiện quyền này còn gặp không ít khó khăn, một phần do các quy định về thủ tục và phần quan trọng hơn, là số lượng luật sư hiện còn quá ít, khoảng hơn 8.000, trong khi đó số lượng vụ án hàng năm Tòa án các cấp thụ lý, giải quyết là rất lớn. Riêng năm 2012, tổng số vụ án Tòa án các cấp thụ lý, xét xử đã là 332.868 vụ[33].  
Quyền bào chữa được Hiến pháp năm 2013 xác định là một quyền con người (quy định ở Chương 2, Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) với một sự bảo đảm cụ thể, rõ ràng hơn cho các đối tượng là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Quy định này của Hiến pháp cũng đã tôn vinh đội ngũ luật sư lên một giá trị mới, đó là người bào chữa cho các đối tượng là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; thực hiện sứ mệnh vẻ vang góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do dân chủ của con người, của công dân, góp phần nâng cao tính pháp quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Việc bảo đảm quyền thực hiện quyền bào chữa, quyền tự bào chữa đã được xác định là nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mọi hành vi ngăn cản, gây khó khăn cho việc thực hiện quyền bào chữa phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người.
Bảo đảm được bồi thường thiệt hại 
Chế định bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của Nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp là dấu hiệu của một nhà nước pháp quyền. Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, nếu công dân thực hiện hành vi tội phạm sẽ bị Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt. Đối với Nhà nước, nếu làm oan, làm sai, gây thiệt hại cho công dân thì Nhà nước phải bồi thường. Hiến pháp năm 1992 quy định “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”[34]. Hiến pháp năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”[35].
So với Hiến pháp năm 1992, quy định về bảo đảm bồi thường thiệt hại trong tư pháp hình sự được Hiến pháp năm 2013 mở rộng hơn về đối tượng được bồi thường, theo đó người được bồi thường thiệt hại không chỉ là người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà cả người bị thiệt hại trong thi hành án. Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động TTHS là Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong TTHS, Viện KSND, TAND. Với quy định của Hiến pháp 2013 về bảo đảm được bồi thường thiệt hại thì mọi hành vi không thực hiện việc bồi thường, bồi thường không đúng mức thiệt hại, để quá thời hạn bồi thường hoặc không khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong TTHS phải bị coi là vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người và có thể bị khởi kiện ra Tòa án.    
3. Kết luận
Chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 có nhiều ý nghĩa to lớn cả về lý luận, thực tiễn. 
Một là, về phương diện chính trị trong nước, các quy định này đã thể chế được chủ trương, đường lối của Đảng “mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”; “phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện”[36]. Đồng thời đã kế thừa các giá trị tiến bộ của các Hiến pháp trước đây, lắng nghe, thấu hiểu và tiếp thu ý kiến của nhân dân[37]
Hai là, về phương diện hội nhập quốc tế, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 cũng đã phù hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc các văn kiện quốc tế về quyền con người có quy định phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp của Việt Nam[38]. Nguyên tắc cơ bản trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị “tất cả những người bị tước quyền tự do sẽ được đối xử nhân đạo và tôn trọng đối với phẩm giá vốn có của một con người”[39] đã được thể hiện ở toàn bộ nội dung chế định tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp sẽ là cơ sở mở rộng đường lối đối ngoại hữu nghị, hợp tác về tư pháp với các nước, đồng thời sẽ trở thành vũ khí hữu hiệu để đấu tranh chống lại các thế lực thù địch thường tìm cớ để bôi nhọ Việt Nam vi phạm nhân quyền.  
Ba là, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 đang tạo ra thời cơ mới cho việc thúc đẩy thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị. Các dự án Luật Tổ chức TAND, Luật Tổ chức Viện KSND, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS, Luật Tạm giữ, tạm giam và các dự án luật khác về quyền tư pháp cần phải tiếp tục cụ thể hóa các chế định của Hiến pháp, một mặt đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, mặt khác phải quan tâm đến việc bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự.    
Bốn là, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 cũng đặt ra nhiều thách thức. Về phía các cơ quan tiến hành tố tụng, đòi hỏi cán bộ không chỉ có trình độ, kỹ năng nghệ nghiệp mà còn cần am hiểu về Hiến pháp học, để hạn chế tối đa việc xảy oan sai, vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người. Dù sao Hiến pháp cũng là văn kiện khá trừu tượng, khái quát mà không phải người dân nào cũng hiểu rõ để thi hành, nên Nhà nước cần tiếp tục có các hình thức tuyên truyền thích hợp đối với từng đối tượng. Đồng thời, Nhà nước cần yêu cầu các cơ quan truyền thông đại chúng có trách nhiệm phản hồi các thông tin về hành vi vi phạm Hiến pháp, vi phạm quyền con người để có biện pháp xử lý kịp thời.      
Có thể khẳng định, chế định bảo đảm quyền con người về tư pháp hình sự trong Hiến pháp năm 2013 là thành công lớn của các nhà lập hiến, của toàn thể nhân dân, xứng đáng được tôn vinh là những viên ngọc quý gắn trên vương miện của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Từ đây, nhân dân có thể tìm đến Hiến pháp như một vị “thần linh pháp quyền” để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi bị xâm hại./.

 


[1] Xem Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19 (135), tháng 11/2008. 
[2] Điều 69, Hiến pháp 2013
[3] Điều 94, Hiến pháp 2013
[4] Điều 126, Hiến pháp năm 1992.
[5] Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
[6] Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013.
[7] Khoản 3, Điều 20 Hiến pháp năm 2013.
[8] Xem Phạm Văn Hùng, Hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp, tiếp cận từ quyền tự do và an ninh cá nhân, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 22 (207), tháng 11/2011.
[9] Quy định “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện KSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định” không có trong Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội kèm theo Tờ trình số 194/TTr-UBDTSĐHP ngày 19/10/2012. 
[10] Điều 71 Hiến pháp 1992.
[11] Nghị quyết 49-NQ/TVQH ngày 20/6/1961 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) quy định UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền ban hành quyết định tập trung cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã hội với thời hạn 3 năm. Với quy định tại khoản 2 Điều 20, Hiến pháp 2013, Nghị quyết này đương nhiên bị bãi bỏ; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền ban hành quyết định quản chế hành chính mà thực chất là hạn chế quyền tự do đi lại, cấm đảm nhiệm chức vụ trong cơ quan, tổ chức và cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, biện pháp quản chế hành chính này cũng đã bị UBTVQH bãi bỏ.   
[12] Điều 71, Hiến pháp năm 1992.
[13] Khoản 1 Điều 20, Hiến pháp năm 2013.
[14] Điều 298, Bộ luật Hình sự năm 1999.
[15] Điều 299, Bộ luật Hình sự năm 1999.
[16] Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
[17] Khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
[18] Theo Báo Lao động số 244 ngày 27/9/2007, số lượng án chờ xét xử để quá hạn luật định hàng năm vào khoảng 2.000 vụ.
[19] Hồ Chí Minh, Bài nói tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Nhà nước và Pháp luật, Tập 3, NXB Lao động 1971, trang 138 - 142.
[20] Khoản 1, Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
[21] Điều 5 Bộ luật TTHS.
[22] Điều 10 Bộ luật TTHS.
[23] Điều 14 Bộ luật TTHS.
[24]Hồ Chí Minh, Bài nói tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành tư pháp năm 1950, Tlđd; trang 138 - 142.
[25] Điều 130 Hiến pháp năm 1992.
[26] Điều 18 Bộ luật TTHS
 
[28] Khoản 7, Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
[29]Điều 67 Hiến pháp 1946; Điều 101 Hiến pháp 1959; Điều 113 Hiến pháp 1980; Điều 132 Hiến pháp 1992.
[30] Khoản 4, Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
[31] Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
[32] Điều 11, các Điều 56, 57, 58 Bộ luật TTHS.
[33] Báo cáo số 78/BC-TA ngày 19/12/2013 của TAND tối cao Báo cáo Tổng kết thi hành Luật tổ chức TAND 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002, trang 8.
[34] Điều 72 Hiến pháp năm 1992
[35] Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
[36] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2011, trang 100.
[37] Trong Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội kèm theo Tờ trình số 194/TTr – UBDTSĐHP ngày 19/10/2012 không có quy định “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện KSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định”.  
 
[38] Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966, Việt Nam gia nhập năm 1982; Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc 1965, Việt Nam gia nhập năm 1981 (xem Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Bình luận và khuyến nghị chung của Ủy ban công ước thuộc Liên hợp quốc về quyền con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2008, trang 269, 272, 274, 276, 286, 309, 317, 322, 805); Công ước Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984, Việt Nam gia nhập năm 2013 (xem cơ sở giữ liệu trực tuyến về quyền con người, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội).  
 
[39] Khoản 1 Điều 10 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966, Việt Nam gia nhập năm 1982.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 15(271), tháng 8/2014)


Thống kê truy cập

33950966

Tổng truy cập