Quốc hội trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi)

01/01/2014

PGS.TS. ĐINH XUÂN THẢO

ĐBQH, Viện trưởng Viện NCLP thuộc UBTVQH

ThS. NGUYỄN THỊ HOÀN

Bộ Nội vụ (Đại học Nội vụ)

Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, với 97,59% số phiếu tán thành, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam (sửa đổi). Đây là một sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng có ý nghĩa lịch sử, mở ra một thời kỳ mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam.  
Lịch sử lập hiến của Nhà nước ta cho thấy, việc ban hành các bản Hiến pháp, từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) đến nay, đều gắn với các dấu mốc phát triển lớn trong lịch sử quốc gia, dân tộc. Nếu quan niệm bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 là bản Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới, thì bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) lần này là một sự tiếp nối mạnh mẽ, sâu sắc hơn, sẽ thực sự đóng vai trò là “nhân tố để nước ta vững bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển về mọi mặt và chủ động hội nhập quốc tế”[1].
Untitled_421.png
Ảnh minh họa: nguồn internet
Sự tiếp nối và tiếp tục phát triển theo chiều hướng sâu rộng hơn về nội dung của Bản Hiến pháp (sửa đổi) có thể quan sát được trên các khía cạnh lớn: (i) Tiếp tục là nền tảng chính trị - pháp lý cho việc đề cao và phát huy một cách mạnh mẽ, hiệu quả hơn nhân tố con người trong đời sống Nhà nước và xã hội (ii) Tiếp tục thể chế hóa đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng, là cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế; (iii) Tiếp tục tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, bộ máy nhà nước ta, trong đó có chế định về Quốc hội tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện.
Trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta, bản Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục kế thừa cơ bản các quy định của Hiến pháp năm 1992, thể chế hoá ở mức độ sâu sắc hơn đường lối của Đảng, Nhà nước ta về bản chất của Nhà nước, về việc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, về phát huy dân chủ XHCN. Từ Lời nói đầu của Bản Hiến pháp (sửa đổi) đã khẳng định rõ: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; đồng thời nhấn mạnh “Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ” (khoản 2 Điều 2); việc thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân cũng đã được quy định rõ, đầy đủ hơn, theo đó “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằngdân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông quacác cơ quan khác của Nhà nước”(Điều 6) v.v.. Có thể nói, đây là sự thể chế hoá kịp thời những nhận thức, tư duy sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, về bản chất của Nhà nước, về việc bảo đảm trên thực tế nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; đây cũng có thể coi là bước tiếp nối trong thời đại ngày nay của mạch nguồn tư tưởng “lấy dân làm gốc” của cha ông ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Bên cạnh đó, trên cơ sở kế thừa Hiến pháp năm 1992, tiếp thu có chọn lọc những giá trị pháp lý của nhân loại, thể chế hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), Bản Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước “Quyền lực nhà nước là thống nhất”; đồng thời, bên cạnh sự phân công, phối hợp, đã bổ sung thêm việc phải có sự kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2). Đây là quy định quan trọng, tạo cơ sở hiến định để các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vận hành hiệu quả theo chức năng, nhiệm vụ, đồng thời vẫn bảo đảm mức độ kiểm soát hợp lý; hạn chế, phòng ngừa nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước, song vẫn bảo đảm vị trí, vai trò của Quốc hội theo đúng quy định của Hiến pháp thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam; bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây là quy định có tính nguyên tắc, chi phối, xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp về chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, về tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó có về Quốc hội v.v..
Căn cứ vào những quy định trên đây của Hiến pháp (sửa đổi), vị trí chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đã được xác định rõ, thể hiện qua các chương về các thiết chế trong tổ chức bộ máy của Nhà nước ta. Chương V của Hiến pháp sửa đổi quy định về Quốc hội, với 16 điều, từ Điều 69 đến Điều 85 (so với 18 điều, từ Điều 83 đến Điều 100 tại Chương VI của Hiến pháp năm 1992). Về mặt kỹ thuật, số lượng các điều trong Chương có giảm đi (giảm 02 điều); cách thiết kế các điều cũng thể hiện sự hợp lý, logic, chặt chẽ hơn về văn phong, bố cục, thể hiện bước tiến mới về kỹ thuật lập hiến.
Bản Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam (Điều 69). Đánh giá một cách tổng thể, có thể nói các vấn đề căn bản nhất về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong Bản Hiến pháp sửa đổi tiếp tục kế thừa các quy định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 1992. Theo đó, “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.”
Bên cạnh đó, các quy định về Quốc hội trong Bản Hiến pháp (sửa đổi) đã có những điều chỉnh theo hướng minh định rõ hơn về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các chủ thể có liên quan trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Thể hiện qua một số điểm mới chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về quyền lập hiến, Bản Hiến pháp (sửa đổi) quy định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (Điều 69), so với Hiến pháp năm 1992, đã bỏ cụm từ “duy nhất”, gắn với khả năng thực hiện trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp trong tương lai. Theo đó, Bản Hiến pháp (sửa đổi) - Chương XI về Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp, tại khoản 4 Điều 120 đã bổ sung quy định: “Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”; quy định này nhằm thể chế hoá chủ trương của Đảng về phát huy dân chủ XHCN; Quốc hội với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu dân ý về Hiến pháp, phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước. 
Bên cạnh đó, Hiến pháp (sửa đổi), tại điểm 1 Điều 70 về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, đã không tiếp tục quy định cụ thể việc Quốc hội thực hiện “quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh” như nội dung đã được quy định tại điểm 1 Điều 84 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001). Việc sửa đổi này là cần thiết, bảo đảm tính khái quát hoá cao của Hiến pháp; trên thực tế, hoạt động quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nếu cần thiết cũng chỉ là một công đoạn trong việc thực hiện thẩm quyền “làm luật và sửa đổi luật” của Quốc hội.
Thứ hai, đặt trong điều kiện các cơ quan như Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước đã được quy định bổ sung rõ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ trong một Chương riêng - Chương X của Bản Hiến pháp (sửa đổi), Bản Hiến pháp (sửa đổi) lần này đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của Quốc hội, như: trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao, đã bổ sung quy định Quốc hội thực hiện việc “xét báo cáo công tác của Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” (điểm 2 Điều 70); trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng Bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Quốc phòng và an ninh, Hội đồng Bầu cử quốc gia (điểm 7 Điều 70) v.v..
Ngoài ra, so với quy định tại điểm 8 Điều 84 Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp (sửa đổi) cũng quy định bổ sung theo hướng đầy đủ, chặt chẽ hơn về thẩm quyền của Quốc hội không chỉ giới hạn ở việc thành lập, giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, mà còn bổ sung cả việc nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; bổ sung quy định việc Quốc hội có thẩm quyền thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật (điểm 9 Điều 70).
Về Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp (sửa đổi) đã có sự điều chỉnh theo hướng quy định việc Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Uỷ ban của Quốc hội; còn các Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc và các Uỷ viên, các Phó Chủ nhiệm các Uỷ ban và các Uỷ viên Uỷ ban do Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) phê chuẩn (các điều 70, 75, 76); việc thành lập, giải thể Uỷ ban của Quốc hội do Quốc hội quyết định (Điều 76). Quy định này một mặt vẫn bảo đảm được vị thế của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, mặt khác bảo đảm tính chủ động, kịp thời, không phức tạp về quy trình, thủ tục trong trường hợp cần có sự điều chỉnh về nhân sự do yêu cầu của thực tiễn.
Bên cạnh đó, Hiến pháp (sửa đổi) lần này còn bổ sung quy định về thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân  (TAND) tối cao (điểm 7 Điều 70). Có thể nói, thông qua quy định này, đã thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa Quốc hội với TAND; thể hiện vị trí, vai trò quan trọng ngày càng tăng của chức danh Thẩm phán TAND tối cao trong mối tương quan với các chức danh khác trong bộ máy nhà nước; đặt trong bối cảnh Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định rõ TAND là cơ quan xét xử của Nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Điều 102); và TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 104). Thứ ba, quy định theo hướng rõ và hợp lý hơn về trách nhiệm, thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội có thẩm quyền “quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (điểm 3 Điều 70) thay thế cho việc quy định thẩm quyền chung về “quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” như tại điểm 3 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001);
Bên cạnh đó, Hiến pháp (sửa đổi) cũng quy định Quốc hội có thẩm quyền “quyết định chính sách cơ bản vềtài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toánngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước” (điểm 4 Điều 70). Như thế, so với Hiến pháp năm 1992, đã có những điều chỉnh quan trọng, như đối với chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, Quốc hội chỉ tập trung vào quyết định các chính sách cơ bản;các nội dung quan trọng khác cũng được bổ sung, minh định rõ hơn lần này, như việcquyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ v.v.. Những quy định này một mặt thể hiện thẩm quyền của Quốc hội trong việc bảo đảm tính thống nhất về mặt Nhà nước đối với các về đề tài chính, tiền tệ, kinh tế... quan trọng của quốc gia; đồng thời, mở ra khả năng thực hiện phân cấp, phân định nhiệm vụ quyền hạn hợp lý hơn giữa các cơ quan ở trung ương và địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong những vấn đề có liên quan đến kinh tế - xã hội nói chung của quốc gia trong thời gian tới.
Thứ tư,bổ sung việc quy định Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TAND tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp (điểm 7 Điều 70). Đây là quy định mới trong bản Hiến pháp (sửa đổi) lần này. Thực tiễn cho thấy, bản Hiến pháp (sửa đổi) thực sự  chứa đựng những mạch nguồn tư tưởng, là sự kết tinh ý chí, khát vọng của tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, là sự thể chế hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH[2] của Đảng ta. Do đó, có thể nói với vị trí, vai trò, trách nhiệm là những chức danh, nhân sự cấp cao trong bộ máy nhà nước, khi được Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất - bầu ra, việc người giữ các chức danh này phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp sẽ vừa thể hiện trách nhiệm chính trị sâu sắc, vừa có ý nghĩa khắc sâu trong tâm khảm người cán bộ lãnh đạo như là phương châm hành động về sự trung thành với những giá trị mà cả dân tộc đang hướng theo. Đồng thời, có thể quan niệm đây cũng là lời cam kết mạnh mẽ của các chức danh lãnh đạo quan trọng trong bộ máy nhà nước trước nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Quốc hội, nhân dân giao phó.
Thứ năm, thẩm quyền của Quốc hội trong các vấn đề liên quan đến đối ngoại, chủ quyền quốc gia cũng đã được điều chỉnh lại theo hướng rõ, chặt chẽ hơn. Theo đó, tại điểm 14 Điều 70, bên cạnh việc tiếp tục quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, đã có sự điều chỉnh cụ thể, hợp lý hơn thông qua việc quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực củađiều ước quốc tế liên quan đếnchiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của CHXHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân vàđiều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội. Sự minh định này là cần thiết, là nền tảng hiến định cho việc tạo lập hành lang pháp lý theo hướng chuẩn mực, hoàn thiện hơn cho việc bảo đảm, thực thi chủ quyền quốc gia, thực thi chính sách đối ngoại... trong thời gian tới.
Thứ sáu, một số thẩm quyền của UBTVQH liên quan đến việc bổ sung cơ quan Hội đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X), việc bổ sung nội dung cơ quan khác do Quốc hội thành lập, bãi bỏ (Điều 70) Hiến pháp (sửa đổi) cũng đã được quy định, như việc giám sát hoạt động của cơ quan khác do Quốc hội thành lập (điểm 3 Điều 74); đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng Bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước (điểm 6 Điều 74) v.v..
Bên cạnh đó, Bản Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung thẩm quyền của UBTVQH trong việc “phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của CHXHCN Việt Nam” (điểm 12 Điều 74). Việc bổ sung này trong Hiến pháp là cần thiết,[3] do vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài và quy định này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên thực tế, xét về mặt lịch sử lập hiến của Nhà nước ta, thì đây cũng là sự kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959 (điểm 11 Điều 53), Hiến pháp năm 1980 (điểm 14 Điều 100) về nội dung này.
Để bảo đảm hiệu lực thi hành của Hiến pháp, cũng tại kỳ họp thứ 6 lần này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp (sửa đổi), trong đó quy định Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 (Điều 1). Nghị quyết đã xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp. Đồng thời, Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình, nâng cao nhận thức về Hiến pháp và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội[4]. Như vậy, có thể nói, việc ban hành bản Hiến pháp (sửa đổi) đã là một thành công, song cũng cần nhận thức rằng, chỉ khi Hiến pháp được thực thi, hiện thực hoá trong đời sống xã hội thì mới có sức sống thực sự. Trong thời gian tới, với những nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam quy định, cùng với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong hệ thống chính trị, chúng ta có niềm tin mạnh mẽ rằng, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện ngày càng tốt hơn vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên cơ sở quy định của Hiến pháp, tạo tiền đề tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước theo chủ trương của Đảng, phúc đáp kịp thời yêu cầu của thực tiễn trong thời gian tới.

 


[1] Đồng chíNguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp: “Hiến pháp sửa đổi là đảm bảo chính trị - pháp lý vững chắc để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đồng lòng vững bước tiến lên trong thời kỳ mới”
 
[2] Xem Lời nói đầu, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi)
[3] Tham khảo thêm: Đoàn thư ký kỳ họp, Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) – Tài liệu kèm theo Đề cương báo cáo kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XIII
[4] Điều 4, Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 2+3(258+259), tháng 2/2014)