Cần thành lập ủy ban dân nguyện của quốc hội

01/02/2013

ThS. PHÙNG VĂN HUYÊN

Vụ Dân nguyện, Văn phòng Quốc hội

1. Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội để giúp Quốc hội thực hiện chức năng dân nguyện
 Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Để thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân, các hoạt động của Quốc hội đều vì nhân dân, Quốc hội cần phải có cơ chế để có thể lắng nghe, thu thập được ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt những phản hồi từ nhân dân phục vụ cho việc hoạch định chính sách, pháp luật, bảo đảm các chính sách, pháp luật và các quyết sách đều có nguồn gốc, cội rễ từ ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đây cũng chính là cơ chế để Quốc hội thông qua đó làm tốt chức năng giám sát tối cao, bảo đảm pháp luật đi vào cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng, thực sự là công cụ hữu hiệu trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Quốc hội muốn trở thành cơ quan quyền lực nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì nhất thiết phải làm tốt công tác dân nguyện. Điều đó cũng chính là sự thể hiện đúng đắn bản chất tiến bộ của chế độ dân chủ ở nước ta. Muốn vậy, đòi hỏi Quốc hội cần có một cơ quan chuyên môn có đủ năng lực và địa vị pháp lý để giúp Quốc hội thực hiện công tác dân nguyện. Việc xây dựng một thiết chế với cơ chế hoạt động thích hợp của cơ quan dân nguyện của Quốc hội Việt Nam trong điều kiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân hiện nay là tất yếu, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển chung, đồng thời đó cũng nhằm góp phần tăng cường mối liên hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.
Vậy, Quốc hội nước ta có chức năng dân nguyện không? Chức năng này của Quốc hội được pháp luật quy định như thế nào? Cần thiết phải có Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội trong tương lai không?
Trước hết, phải khẳng định rằng, bất kỳ một cơ quan dân cử nào sau khi được nhân dân bầu ra cũng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, thực thi các chính sách bảo đảm quyền cơ bản của công dân. Những công việc mà Quốc hội hướng tới thực hành quyền của công dân, lợi ích của nhân dân chính là công tác dân nguyện của Quốc hội. Chức năng này của Quốc hội được pháp luật quy định ở nhiều khía cạnh khác nhau, như về quyền yêu cầu, thỉnh nguyện của nhân dân, trách nhiệm thực thi pháp luật để bảo đảm hiện thực hóa quyền dân nguyện v.v..
1.1. Chức năng dân nguyện của Quốc hội được đặt ra khi Hiến pháp và pháp luật quy định cho công dân một số quyền dân nguyện cơ bản, đó là việc tham gia quản lý nhà nước, thực hành dân chủ XHCN
Hiến pháp 1992 quy định khá nhiều quyền của công dân, trong đó các quyền tự do dân chủ, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị được đề cao. “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”(Điều 50). “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”(Điều 53).
Điều 74 Hiến pháp 1992 quy định cụ thể hơn về quyền của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo và được bảo vệ khi thực hiện việc khiếu nại, tố cáo: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
 Quyền về dân nguyện của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật, tạo cơ sở để công dân thực hiện quyền của mình. Các quyền dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự, quyền khiếu nại - tố cáo được quy định trong Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo, quyền bầu cử, ứng cử được quy định trong Luật Bầu cử ĐBQH và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; quyền ý kiến, kiến nghị với Quốc hội trong Luật Tổ chức Quốc hội v.v.. Tương ứng với mỗi quyền của công dân, pháp luật cũng đã có những quy định khá cụ thể để đảm bảo công dân thực hiện.
Để hiện thực hóa các quyền của công dân, Nhà nước đã tổ chức ra một số cơ quan, như cơ quan thực hiện việc ban hành pháp luật, cơ quan tổ chức thực thi pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật. Tuy nhiện, khi tổ chức thực hiện các công việc này không phải lúc nào cơ quan nhà nước cũng làm tốt được việc gần dân, vì dân, bảo vệ được đầy đủ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Trong xu hướng phát triển tiến bộ xã hội, ưu thế của nền dân chủ được thể hiện ở việc Nhà nước không chỉ tạo lập được khuôn khổ pháp lý mà còn phải tổ chức ra bộ máy để thực hành được quyền của nhân ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó đặc biệt coi trọng thực hành quyền dân nguyện.
Bên cạnh việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi phải tổ chức được bộ máy để có thể thúc đẩy các hoạt động của Nhà nước theo đúng hướng, thể hiện được quyền lợi thật sự của nhân dân, vì nhân dân hơn; đề cao trách nhiệm của bộ máy nhà nước trước nhân dân. Ở phương diện hoạt động của Quốc hội, trước tình hình hiện nay, đòi hỏi phải có cơ chế thích hợp với một cơ quan do Quốc hội lập ra để giúp Quốc hội trong những hoạt động của mình mới có thể thực hiện được mục tiêu “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
1.2. Chức năng dân nguyện của Quốc hội được đặt ra khi Hiến pháp và pháp luật quy định trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH trong việc bảo đảm thực thi các quyền dân nguyện của công dân 
Hiến pháp và pháp luật không chỉ quy định quyền dân nguyện của công dân, hơn nữa còn quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi để  công dân có thể thực hành được quyền của mình. Điều 83 Hiến pháp năm 1992 quy định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Hiến pháp quy định Quốc hội có quyền “Quyết định việc trưng cầu ý dân” (Điều 84).
Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội cũng quy định cụ thể về trách nhiệm của ĐBQH trước nhân dân. ĐBQH vừa là người đại biểu của nhân dân, vừa là người có trách nhiệm bảo đảm các quyền của người dân với tư cách là người đã được nhân dân tín nhiệm bầu ra. Điều 97 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ĐBQH là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. ĐBQH phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó”.
Quy định trên đây đã được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật hoạt động giám sát của Quốc hội (Luật HĐGSCQH); Luật tổ chức Quốc hội; Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH; Nội quy kỳ họp Quốc hội; Quy chế hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH); Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội; Nghị quyết số 228/NQ-UBTVQH10 của UBTVQH về việc ĐBQH tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; Nghị quyết số 694/2008-NQ-UBTVQH12 của UBTVQH về việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân gửi Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội; Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTWMTTQVN hướng dẫn về việc ĐBQH tiếp xúc cử tri[1] v.v..
Các quy định cụ thể hóa các quyền của công dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã thực sự tạo được cơ sở pháp lý thuận lợi để người dân có thể thực hiện quyền của mình, qua đó phát huy được quyền làm chủ, quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; đồng thời, có thể tự bảo vệ quyền của mình trước pháp luật.
1.3. Chức năng dân nguyện của Quốc hội đặt ra trước đòi hỏi của thực tiễn giải quyết các yêu cầu, thỉnh nguyện của nhân dân, thể hiện trong các hoạt động:
- Hoạt động tiếp công dân: Đây là công việc quan trọng để Quốc hội tiếp nhận trực tiếp các ý kiến, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân muốn đề đạt với Quốc hội. Điều 35 Luật Tổ chức Quốc hội và Khoản 1 Điều 33 Luật HĐGSCQH ghi: “Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân; tiếp nhận, nghiên cứu và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách”. Tại Khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 695/2008/NQ-UBTVQH12 của UBTVQH khóa XI thì Ban Dân nguyện có nhiệm vụ “Tiếp công dân, tổ chức tiếp công dân đến Quốc hội, UBTVQH; khi cần thiết phối hợp với Thường trực Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và các cơ quan hữu quan tiếp công dân”.
Trong các nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, tình hình công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội ngày càng nhiều, nội dung đơn, thư phong phú, đa dạng; số lượng các vụ việc khiếu nại, tố cáo tập trung đông người gia tăng ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước với thái độ gay gắt, quyết liệt, đặc biệt là khiếu nại vượt cấp lên trung ương ngày càng nhiều và có sự liên kết giữa người dân các địa phương. Việc công dân tập trung đông người, trưng băng rôn, khẩu hiệu, diễu hành trên đường phố, đến nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước diễn ra khá phổ biến. Tổng hợp số liệu trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI, XII và từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, các cơ quan của Quốc hội, các Ban của UBTVQH đã tiếp 41.422 lượt người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị (trong đó có gần 400 lượt đoàn khiếu nại, tố cáo đông người (có đoàn tới gần 1.000 người).   
- Hoạt động tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân: Tại Điều 35 Luật tổ chức Quốc hội và Điều 43 Luật HĐGSCQH thì Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, xử lý đơn thư của công dân thuộc lĩnh vực phụ trách. Theo quy định tại Nghị quyết số 694/2008/NQ-UBTVQH12 của UBTVQH thì Ban Dân nguyện có trách nhiệm tiếp nhận, phân loại đơn thư của công dân gửi đến Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Ban Dân nguyện để chuyển đến Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội.
Theo số liệu thống kê tổng hợp trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI, XII, Ban Dân nguyện đã tiếp nhận 146.114 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, trong đó đã nghiên cứu, chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết 15.125 đơn thư và nhận được 7.389 văn bản trả lời. Qua phân tích, số đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân gửi đến nhưng các cơ quan của Quốc hội chưa xử lý được hoặc chưa có cơ chế để xử lý (lưu lại) tổng số là130.989/146.114 đơn thư. Số đơn thư do các cơ quan của Quốc hội đã chuyển nhưng các cơ quan có trách nhiệm giải quyết chưa giải quyết hoặc không trả lời là 7.736/15.125 vụ việc.
- Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân: Quốc hội có thẩm quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Luật HĐGSCQH quy định UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH đều có thẩm quyền, trách nhiệm giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân: “UBTVQH giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo” (Điều 25); “Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp công dân; tiếp nhận, nghiên cứu và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách” (Điều 33); ĐBQH “giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” (điểm c, Điều 37); Đoàn ĐBQH “giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà ĐBQH, Đoàn ĐBQH đã chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết” (khoản 2 Điều 38)...
Trước đòi hỏi của thực tiễn cần xem xét, đánh giá một cách toàn diện việc thực thi pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong phạm vi cả nước, lần đầu tiên vào năm 2008, UBTVQH đã quyết định tổ chức giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cả lĩnh vực hành chính và tư pháp. Báo cáo kết quả giám sát của UBTVQH cũng đã được trình ra Quốc hội với những kiến nghị cụ thể đòi hỏi các cơ quan chức năng tăng cường trách nhiệm trong việc thi hành pháp luật và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân.
- Hoạt động tập hợp, tổng hợp, chuyển yêu cầu giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội: Theo số liệu thống kê được của các Đoàn ĐBQH, trong 7 năm (2004-2011) thực hiện Nghị quyết liên tịch số 06/2004/NQLT/UBTVQH11-ĐCTUBTƯMTTQVN ngày 10/9/2004 hướng dẫn về việc ĐBQH tiếp xúc cử tri, thì qua hoạt động tiếp xúc cử tri, các ĐBQH đã thu thập được 57.169 ý kiến, kiến nghị của cử tri, trong đó có 24.216 ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền nghiên cứu, giải quyết của các cơ quan, tổ chức ở trung ương, 32.953 ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền nghiên cứu, giải quyết của cơ quan, tổ chức ở địa phương.
Bình quân mỗi kỳ họp Quốc hội, cử tri cả nước gửi đến Quốc hội khoảng trên dưới 2.000 kiến nghị. Nội dung kiến nghị phản ánh hầu hết tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo quy định của pháp luật và trên thực tế, các ý kiến, kiến nghị của cử tri đã được giao cho Ban Dân nguyện tập hợp và gửi đến các các quan có trách nhiệm để nghiên cứu, giải quyết và trả lời cử tri.
- Hoạt động giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI và nửa đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, UBTVQH đã chỉ đạo Ban Dân nguyện nghiên cứu, tiến hành khảo sát thực tế, báo cáo UBTVQH một số vấn đề bức xúc mà cử tri đã kiến nghị tại nhiều kỳ họp Quốc hội. Hoạt động giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri mới thực sự được chú trọng từ giữa nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII. Một bước tiến quan trọng trong hoạt động giám sát này là tại kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XII, UBTVQH có báo cáo về tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri, tuy rằng đây không phải là báo cáo giám sát, nhưng nó cũng có ý nghĩa tích cực khởi đầu cho sự chuyển hướng từ hoạt động khảo sát sang hoạt động giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri. Từ kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa XII đến nay, UBTVQH giao cho Ban Dân nguyện chủ động giúp UBTVQH triển khai các hoạt động giám sát và xây dựng báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri để UBTVQH trình ra kỳ họp Quốc hội, qua đó đã góp phần tích cực thúc đẩy các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nâng cao trách nhiệm trong việc giải quyết kiến nghị của cử tri.
1.4. Chức năng dân nguyện của Quốc hội đặt ra để giải quyết những bất cập, hạn chế trong việc tổ chức thực hành các yêu cầu, thỉnh nguyện của công dân
Trong hệ thống pháp luật, các quy định về quyền dân nguyện còn bị phân tán, rải rác ở nhiều văn bản khác nhau; có những quy định chưa cụ thể, thiếu tính khả thi. Thực tiễn thực hiện quyền dân nguyện của công dân vẫn còn có những bất cập, khó khăn, vướng mắc, hiệu quả còn thấp. Đến nay, vẫn chưa có một cơ quan dân cử nào được tổ chức một cách độc lập để có thể đảm trách đầu mối phối hợp, giúp Quốc hội tổ chức thực hiện đầy đủ hơn các quyền dân nguyện của công dân; việc thu thập, phản ánh khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của người dân đến cơ quan nhà nước được giao cho nhiều cơ quan khác nhau cùng tiến hành thực hiện nên còn phân tán, trùng chéo về chức năng, hiệu quả hoạt động thấp. Hoạt động tiếp công dân còn phiến diện, mới chủ yếu tiếp công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị thuộc lĩnh vực tư pháp, tiếp ít các trường hợp khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực hành chính; chưa gắn việc tiếp công dân với hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Công tác nghiên cứu, xử lý các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân còn bất cập, chưa có cơ chế để bảo đảm xử lý đầy đủ, trách nhiệm các đơn thư khiếu nại, tố cáo và thông tin lại cho công dân. Bình quân hằng năm, các cơ quan của Quốc hội mới chỉ xử lý được trên dưới 10% lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội. Việc tiếp nhận, xử lý đơn thư của công dân trong nội bộ các cơ quan của Quốc hội còn lòng vòng, tốn thời gian, nhân lực mà hiệu quả không cao; đồng thời cũng dẫn đến việc xử lý đơn thư của công dân không được kịp thời, không phù hợp với cải cách hành chính hiện nay. Mặt khác, việc xác định nội dung đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội là rất khó khăn, nhất là đối với đơn tố cáo. Thực tiễn đã chứng minh việc xác định nội dung đơn thư của công dân phụ thuộc vào quan niệm của mỗi cơ quan nên việc xử lý đơn thư còn chồng chéo giữa các cơ quan của Quốc hội.
Hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều lúng túng. Đây vẫn là khâu yếu nhất trong hoạt động giám sát nói chung của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Hoạt động giám sát việc giải quyết các vụ việc cụ thể vẫn còn hình thức, như chủ yếu là nghe báo cáo mà chưa đi sâu tìm hiểu vụ việc đó xem cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã giải quyết đúng hay chưa đúng pháp luật; rất ít vụ việc được xem xét, đánh giá, kiến nghị, đeo bám đến cùng để làm rõ việc giải quyết cũng như trách nhiệm giải quyết và bảo vệ cho được quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân. Việc tập hợp, xử lý kiến nghị của cử tri tuy đã tập trung vào một đầu mối do Ban Dân nguyện đảm trách, nhưng việc giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri những năm qua còn lúng túng do chưa có một tổ chức ngang tầm để thực hiện; hiệu lực kiến nghị giám sát chưa thật mạnh mẽ do địa vị pháp lý của cơ quan thực hiện giám sát là Ban Dân nguyện chưa tương xứng với nhiệm vụ, yêu cầu giám sát, dẫn đến khó khăn trong việc theo đuổi đến cùng việc giải quyết các vấn đề cử mà cử tri.
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI đến nay, mặc dù đã thành lập Ban Dân nguyệncủa UBTVQH (năm 2003) nhưng công tác dân nguyện hiện nay vẫn do nhiều cơ quan của Quốc hội cùng thực hiện; nên tất yếu dẫn đến sự phân tán, không thống nhất, hiệu quả thấp. Hiện nay, Ban Dân nguyện tuy được giao nhiệm vụ giúp UBTVQH giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri nhưng do chỉ là cơ quan chuyên môn giúp việc nên không có đủ quyền năng để có thể độc lập thực hiện các nhiệm vụ công tác dân nguyện, nhất là yêu cầu giám sát việc thực thi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công tác dân nguyện.
1.5. Chức năng dân nguyện của Quốc hội đặt ra trước đòi hỏi phải bảo đảm thực hiện được quy định của pháp luật về quyền của công dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội
Điều 53 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Hệ thống pháp luật nước ta tuy đã có những quy định cụ thể để công dân thực hiện một số việc khi tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội dưới những hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng trên thực tế còn thiếu vắng cơ chế và tổ chức bộ máy để có thể thực hiện chức năng trung gian, đầu mối trong việc hướng dẫn, tổ chức để nhân dân thực hiện các quyền cơ bản, đồng thời tiếp nhận, tập hợp, tổng hợp, phản ánh ý kiến, kiến nghị của nhân dân về những vấn đề liên quan đến quyền của công dân trong việc tham gia quá lý nhà nước, quản lý xã hội hoặc quyết định những vấn đề khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý.
2. Thành lập Ủy ban Dân nguyện để giúp Quốc hội thực hành tốt chức năng dân nguyện là một yêu cầu thực tiễn, tất yếu, khách quan
Hiến pháp và pháp luật đã có những quy định khá cụ thể về quyền dân nguyện, quyền và trách nhiệm của UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH trong việc thực thi bảo đảm hiện thực hóa quyền dân nguyện của nhân dân như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác dân nguyện chưa được hiểu thống nhất và chỉ tập trung vào lĩnh vực tiếp nhận, xử lý các đơn khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri. Quyền bày tỏ ý kiến của công dân thông qua thỉnh nguyện thư và kiến nghị về xây dựng chính sách, pháp luật chưa được chú trọng. Nhiều vấn đề khiếu nại dai dẳng, khiếu nại đông người chưa được nghiên cứu, giải quyết triệt để.
Từ thực tiễn hoạt động của Quốc hội và đòi hỏi cấp bách hiện nay, cần thành lập Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội nhằm đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác dân nguyện của Quốc hội. Đó cũng chính là một công việc trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội sẽ là bộ máy tham mưu giúp Quốc hội thực hiện được chức năng dân nguyện trong việc hoạch định chính sách, quyết định các vấn đề quan trọng và đặc biệt là hoạt động giám sát thực hiện chính sách liên quan đến dân nguyện.    
Qua tổng kết việc thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải pháp trong thời gian tới và Chỉ thị số 12/CT-TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta, Đảng Đoàn Quốc hội nhận thấy, công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về quyền con người cần phải được tập trung vào một đầu mối do một cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm. Do đó, tại hai Báo cáo này, Đảng Đoàn Quốc hội đã kiến nghị Bộ Chính trị chỉ đạo việc nghiên cứu thành lập cơ quan dân nguyện của Quốc hội. Cũng tại Kết luận số 444/-Kl/ĐĐQH12 ngày 20/12/2010 của Đảng đoàn Quốc hội về “Đề án đổi mới công tác tiếp xúc cử tri của ĐBQH”, trong đó giao cho “Ban soạn thảo Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi) nghiên cứu một cách toàn diện, xác định đúng vị trí pháp lý của cơ quan dân nguyện, trên cơ sở đó đề xuất thành lập Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về lĩnh vực dân nguyện”.
Với ý nghĩa là cầu nối trực tiếp và quan trọng giữa nhân dân với Quốc hội, hoạt động của Ủy ban Dân nguyện trong tương lai sẽ góp phần vào việc phản ánh đầy đủ và kịp thời tâm tư, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội; đồng thời việc thành lập cơ quan dân nguyện của Quốc hội là thể hiện quan điểm của Đảng về việc mở rộng và phát huy dân chủ của nhân dân, có ý nghĩa tích cực cả về đối nội và đối ngoại, phù hợp với tình hình thực tế của Quốc hội nước ta hiện nay.
3. Cơ sở lựa chọn mô hình Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội  
Để xử lý những vấn đề liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, nhìn chung trên thế giới, tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi nước mà Quốc hội (Nghị viện) thành lập Uỷ ban Dân nguyện của Quốc hội hoặc cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman). Thanh tra Quốc hội được thành lập đầu tiên ở Vương quốc Thụy Điển với nguyên gốc là “Ombudsman”, ở Việt Nam được dịch là Thanh tra Quốc hội, ở một số nước được dịch là “Người bảo vệ công chúng”, “Người bảo vệ nhân dân”, “Người bảo vệ công quyền”..., mô hình Ombudsman là mô hình phổ biến trên thế giới và hiện nay, nhiều nước khác đang nghiên cứu vận dụng, có thể nói đây là mô hình được tổ chức tốt và thực hiện nhiệm vụ công tác dân nguyện rất có hiệu quả thông qua các tiêu chí cơ bản sau:
- Được thành lập và hoạt động độc lập, tuân theo pháp luật, chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội; Thanh tra Quốc hội không thuộc đảng phái chính trị nào, thành viên không phải là ĐBQH và thường là những người có trình độ học vấn cao, có uy tín trong xã hội; Thanh tra Quốc hội tồn tại trong một Nhà nước với thể chế có nhiều đảng phái chính trị và với một nền tảng xã hội phát triển, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân cao;
- Có bộ máy giúp việc (làm việc trong Văn phòng Thanh tra) bao gồm đội ngũ luật sư, cán bộ, công chức có trình độ và hiểu biết xã hội, hội tụ được những chuyên gia giàu kinh nghiệm;
- Có thẩm quyền điều tra, thậm chí có những quốc gia còn quy định Thanh tra Quốc hội được quyền truy tố người vi phạm pháp luật ra Tòa án; có quyền đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng những vụ việc được cho là vi phạm hoặc xét thấy cần thiết và coi đây là phương tiện đắc lực, hữu hiệu trong việc thực hiện nhiệm vụ;
 Thanh tra Quốc hội không phải là một cơ quan của Quốc hội, quy trình thành lập, cơ cấu tổ chức bộ máy và hoạt động của Thanh tra Quốc hội các nước có sự khác biệt cơ bản với các quy định pháp luật của Việt Nam về thành lập, tổ chức và hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Mô hình Thanh tra Quốc hội một số nước là một tổ chức “phi chính trị“ nên việc thành lập Thanh tra Quốc hội là không phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta. Ở Việt Nam, hiện nay hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ nên việc thành lập một cơ quan như mô hình Thanh tra Quốc hội là rất khó thực hiện.
Đối với mô hình có cả Uỷ ban Dân nguyện và Thanh tra Quốc hội như ở Hà Lan hay một số bang của Cộng hòa Liên bang Đức thì lại rất khó trong việc phân định phạm vi thẩm quyền nên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ lại có sự chồng chéo giữa hai cơ quan.  
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội nước ta; qua thực tiễn hoạt động của Quốc hội Việt Nam; đồng thời qua nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh giữa các mô hình tổ chức cũng như kinh nghiệm công tác dân nguyện của một số nước, việc thành lập cơ quan dân nguyện của Quốc hội nước ta có thể dựa theo mô hình Uỷ ban Dân nguyện của Quốc hội là phù hợp. Điều đó xuất phát từ thực tiễn tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước ta cũng đòi hỏi thực sự cấp bách của nhu cầu phát triển dân chủ, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; đồng thời dựa trên cơ sở các nguyên tắc chung về tổ chức bộ máy nhà nước, đảm bảo không chồng chéo về lĩnh vực phụ trách của Uỷ ban Dân nguyện với Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội. Tuy nhiên, chúng ta sẽ lựa chọn mô hình tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Ủy ban này theo phương án tối ưu nhất, có thể đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn của tình hình Việt Nam, có sự kết hợp hài hòa, tiếp thu những tính chất ưu việt của các mô hình cho phù hợp với tình hình ở Việt Nam.
4. Đề xuất vị trí pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban Dân nguyện  
Uỷ ban Dân nguyện cần được xác định là cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội bầu ra, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Nhiệm kỳ của Uỷ ban Dân nguyện theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Ủy ban Dân nguyện có một số chức năng, nhiệm vụ sau đây:
Một là, Uỷ ban Dân nguyện là cơ quan của Quốc hội, trực tiếp giúp Quốc hội thực hiện chức năng dân nguyện của Quốc hội; giúp Quốc hội giữ mối liên hệ với cử tri và nhân dân cả nước thông qua các hoạt động dân nguyện.
Hai là, chủ trì việc tiếp công dân và tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị với Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; phối hợp với Đoàn ĐBQH tiếp công dân trong các kỳ họp Quốc hội;
Ba là, tổ chức giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại tố cáo; thẩm tra báo cáo của Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
Bốn là, tổ chức việc tiếp nhận, xử lý các đơn thư về khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực hành chính; đồng thời thực hiện thường xuyên các hoạt động giám sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật;
Năm là, tập hợp, tổng hợp, đôn đốc việc giải quyết kiến nghị của cử tri; tổ chức các hoạt động giám sát và định kỳ báo cáo trước Quốc hội kết quả giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri;
Sáu là, giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thuộc lĩnh vực phụ trách;
Bảy là, thực hiện việc thẩm tra một số dự án luật, pháp lệnh có liên quan đến lĩnh vực dân nguyện của Quốc hội, như Luật Trưng cầu ý dân, Luật về Tiếp cận thông tin, Luật về Hội, Luật về Quy chế dân chủ ở cơ sở, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các dự án khác do Quốc hội, UBTVQH giao;
 Tám là, thông qua công tác dân nguyện, kiến nghị với Đảng và Nhà nước những vấn đề về xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật.
Chín là, Thực hiện nhiệm vụ khác do UBTVQH giao.
Cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân nguyện gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Uỷ viên Uỷ ban, trong đó có một số Uỷ viên chuyên trách.
Sau khi thành lập, Uỷ ban Dân nguyện có mối quan hệ với các cơ quan của Quốc hội như sau:
- Ủy ban Dân nguyện thực hiện các công việc về tiếp nhận và xử lý toàn bộ đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân thuộc lĩnh vực hành chính; Uỷ ban Tư pháp tiếp nhận, xử lý toàn bộ đơn thư thuộc lĩnh vực tư pháp.
 - Chức năng tiếp nhận, xử lý và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc lĩnh vực hành chính của công dân của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được giao cho Ủy ban Dân nguyện đảm nhiệm
- Quá trình tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát cũng như các hoạt động có liên quan, Ủy ban Dân nguyện có thể phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội để tổ chức thực hiện.
- Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội có mối quan hệ công tác với các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan hữu quan khác trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị

 


[1]Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH12-ĐCTUBTƯMTTQVN ngày 27/9/2012 của UBTVQH và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc tiếp xúc cử tri của ĐBQH, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 và thay thế Nghị quyết liên tịch số 06

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4(236), tháng 2/2013)


Thống kê truy cập

33932400

Tổng truy cập