Vấn đề kiểm soát quyền lực trong dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992

01/02/2013

TS. ĐINH XUÂN THẢO

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội

1. Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
Tư tưởng phân quyền được các nhà triết học đặt ra từ thời La Mã cổ đại và phát triển hoàn thiện ở thời kỳ Khai sáng với sự ra đời của thuyết tam quyền phân lập.
Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước (QLNN) luôn có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình, dần dần xuất hiện xu thế lạm quyền, chuyên quyền trong việc thực thi QLNN. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân được thực thi, ngăn ngừa hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực, Nhà nước cần phải thiết lập cơ chế nhằm giới hạn quyền lực của các cơ quan của mình. Theo đó, thuyết tam quyền phân lập đề cao phương án giới hạn quyền lực của các nhánh quyền lực bằng công cụ pháp lý thông qua việc phân chia thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, làm cho các nhánh quyền lực này chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật. Trên thực tế, sự phân chia này không chỉ nhằm chuyên môn hoá các quyền mà còn tạo ra cơ chế giám sát, chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, tạo nên sự cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan công quyền.  
Trải qua các thời kỳ lịch sử, mặc dù còn những hạn chế nhất định nhưng tinh thần của học thuyết tam quyền phân lập về sự phân công và kiểm soát quyền lực vẫn được các quốc gia theo các thể chế chính trị khác nhau kế thừa và phát triển.
Ở nước ta, mặc dù không thừa nhận việc phân chia quyền lực theo cơ chế tam quyền phân lập nhưng Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (BMNN) dựa trên nguyên tắc nền tảng là: “QLNN[1] là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[2]. Như vậy, việc khẳng định cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động của BMNN đã cho thấy sự thay đổi trong nhận thức lý luận và thực tiễn của Đảng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện NNPQ Việt Nam XHCN. Vậy kiểm soát quyền lực được hiểu như thế nào?
Theo nghĩa rộng, kiểm soát QLNN chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi QLNN sao cho đạt được mục đích chính trị chung và hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát QLNN là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó, Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế QLNN, đảm bảo cho QLNN thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất.
Trên thực tế, kiểm soát QLNN là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền là Nhà nước. Vì thế, mục đích chính của kiểm soát quyền lực là bảo đảm cho QLNN được sử dụng đúng mục đích, được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn.
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước
Ở nước ta, nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát QLNN bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của NNPQ XHCN là “tất cả QLNN thuộc về nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 khẳng định: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[3]. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện và phát triển quan điểm nói trên của Cương lĩnh 1991 trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “QLNN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[4]. Tiếp theo đó, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là NNPQ của dân, do dân, vì dân. QLNN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Đếnnăm 2001, Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó đã thể chế các quan điểm trên của Đảng thành một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN ta. Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi (2001) ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả QLNN thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. QLNN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[6].
Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp với nhau trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được thể hiện nhất quán trong tư duy lý luận của Đảng ta. Đây là một trong những quan điểm quan trọng, thể hiện sự phát triển về nhận thức lý luận của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức và thực hiện QLNN thuộc về nhân dân, trở thành nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng BMNN ta trong thời kỳ đổi mới.
Cùng với sự phát triển tư duy lý luận trong thời kỳ lịch sử mới, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của quá trình 25 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó tiếp tục khẳng định “Nhà nước ta là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “QLNN là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,hành pháp, tư pháp”[7]. So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh 2011 đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trước bối cảnh lịch sử mới. Cương lĩnh không chỉ khẳng định rõ ràng: “Nhà nước ta là NNPQ XHCN” mà còn đưa một nội dung mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN là: “Kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự bổ sung và phát triển này có ý nghĩa to lớn, thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam trong giai đoạn lịch sử mới hiện nay.
3. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992  
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã thể hiện một bước tiến quan trọng khi quy định về phương thức tổ chức QLNN so với các bản Hiến pháp trước đó. Sau 20 năm thực hiện các quy định của Hiến pháp năm 1992, nhân dân ta đã thực hiện được quyền làm chủ của mình, quyền lực nhân dân được bảo đảm ngày càng hiệu quả hơn; nhân dân trực tiếp bầu ra các cơ quan QLNN từ trung ương đến địa phương; tham gia vào các công việc của Nhà nước; trực tiếp tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của BMNN hoặc thông qua các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị - xã hội hay bằng các cơ chế, cách thức cụ thể khác.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được thì việc thi hành các quy định của Hiến pháp năm 1992 về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN vẫn còn một số điểm hạn chế. Cụ thể, nguyên tắc “tất cả QLNN thuộc về nhân dân” trong Hiến pháp năm 1992 chưa được thể hiện một cách đầy đủ trên cả hai hình thức là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.Cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và giám sát việc thực hiện QLNN trên thực tế chưa đầy đủ. Việc sử dụng QLNN của nhân dân theo Hiến pháp năm 1992 còn chủ yếu thể hiện ở hình thức dân chủ đại diện. Bên cạnh đó,Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN nhưng nguyên tắc này chưa được thể hiện rõ ràng trong bản Hiến pháp khi chưa xác định rõ chủ thể thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; chưa thể hiện rõ yêu cầu mới về “kiểm soát QLNN” trong nguyên tắc tổ chức thực hiện QLNN…
Xuất phát từ những nội dung trên, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã có những bước tiến mới, thể hiện sự phát triển trong tư duy lý luận của Đảng ta khi bổ sung, hoàn thiện nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN. Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả QLNN thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[8].
Như vậy, nội dung kiểm soát QLNN đã được Dự thảo sửa đổi Hiến pháp ghi nhận nhằm bảo đảm thực hiện triệt để nguyên tắc: Tất cả QLNN thuộc về nhân dân trên thực tiễn. Tuy nhiên, kiểm soát QLNN là một vấn đề phức tạp và QLNN chỉ có thể được kiểm soát khi Nhà nước có cơ chế xác định rõ ràng và có các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm hình thức kiểm soát theo chiều ngang (là sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong BMNN) và hình thức kiểm soát theo chiều dọc (là sự kiểm soát giữa trung ương và địa phương thông qua việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương; sự kiểm soát của nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của QLNN đối với các cơ quan được ủy quyền thực thi QLNN). Theo đó, những nội dung đã được Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thể hiện một cách cụ thể hơn.
Về hình thức kiểm soát theo chiều ngang: Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức và hoạt động của BMNN ở trung ương: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ nhất, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện rõ sự phân công quyền lực giữa các cơ quan trong BMNN. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan QLNN cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ được khẳng định là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan xét xử và là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, việc phân biệt rõ ràng các nhóm quyền thuộc ba quyền này cũng được Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 quy định.
Như vậy, mặc dù Nhà nước ta không thừa nhận cơ chế tam quyền phân lập nhưng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã thể hiện rõ nội dung “ba quyền được xác lập” khi đã xác lập rõ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên thực tế. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hóa các quyền mà còn là yếu tố đầu tiên tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả giữa các cơ quan trong BMNN. Thực tiễn cho thấy, chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật thì việc kiểm soát QLNN mới có hiệu quả.
Thứ hai, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 thể hiện rõ hơn sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực thi QLNN. Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cơ chế kiểm soát QLNN trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh sự lấn sân, chồng chéo khi thực thi các chức năng, nhiệm vụ đó.
a) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền lập pháp:Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, cơ quan QLNN cao nhất.Theo đó, sự phối hợp, kiểm soát hoạt động của Quốc hội cũng được thể hiện ở việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này. Cụ thể:
Quyền lập hiến: Theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp được quy định như sau: “1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; 2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định; 3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp; 4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”[9].
Quyền lập pháp: Hiến pháp 1992 quy định quyền lập pháp do Quốc hội thực hiện. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc thông qua hay không thông qua các dự án luật. Tuy nhiên, Hiến pháp cũng quy định sự tham gia và phối hợp của nhiều chủ thể khác nhau trong việc trình các dự án luật[10]. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề sáng kiến lập pháp, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 tiếp tục ghi nhận các chủ thể có quyền trình các dự án luật tại Điều 89 như sau: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật trước Quốc hội”[11].
Như vậy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã ghi nhận quyền sáng kiến lập pháp của nhiều chủ thể và có quy định rõ sự khác nhau về quyền sáng kiến lập pháp của cá nhân đại biểu Quốc hội với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền[12]. Trên thực tế, ở nước ta hiện nay, có hơn 95% các dự án luật là do Chính phủ trình, một số văn bản luật do Tòa án soạn thảo và trình Quốc hội. Sự tham gia của các cơ quan trong quá trình soạn thảo và trình các dự án luật đã thể hiện rõ sự phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan hành pháp, tư pháp trong việc thực hiện quyền lập pháp.
Bênh cạnh đó, Chủ tịch nước cũng tham gia vào quá trình lập pháp này với vai trò sáng kiến lập pháp, công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Trong quá trình công bố các văn bản pháp luật, Chủ tịch nước cũng có quyền không công bố pháp lệnh đã được UBTVQH thông qua và có quyền đề nghị UBTVQH xem xét lại pháp lệnh đó. Trong trường hợp UBTVQH vẫn tán thành quyết định đó thì Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại ở kỳ họp gần nhất. Đây là cách thức Chủ tịch nước vừa tham gia, vừa kiểm soát quyền ban hành pháp lệnh của UBTVQH.
b) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Chính phủlà cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ của mình. Đây là một điểm mới được quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp so với Hiến pháp năm 1992. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định Chính phủ có quyền ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết việc thi hành luật, pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH thì Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã khẳng định sự độc lập của Chính phủ trong việc ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý thống nhất các cơ quan trong BMNN­ của mình[13].
Trong việc thực hiện quyền hành pháp, mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội và Chính phủ còn được thể hiện rõ ở quyền quyết định và hoạch định chính sách. Theo đó, Quốc hội chỉ quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc gia; còn Chính phủ sẽ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính chất điều hành, thể hiện sự phản ứng linh hoạt của Nhà nước với thực tiễn phát triển ở  trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền hành pháp còn được thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy định tổ chức và hoạt động của Chính phủ, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập mới, phân chia điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt…; UBTVQH thì có quyền quyết định thành lập mới, nhập, chia điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
c) Cơ chế phối hợp trong việc thực hiện quyền tư pháp
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Việc bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Do đó, các cơ quan, tổ chức và cá nhân tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án chính là cách thức thể hiện sự phối hợp quan trọng nhất, giúp cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong BMNN
Nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của kiểm soát quyền lực trên thực tiễn, bên cạnh việc quy định rõ sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 còn khẳng định cơ chế kiểm soát giữa các cơ quan trong BMNN.
 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã quy định một chương riêng về các thiết chế hiến định độc lập, bao gồm ba cơ quan: Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Việc ghi nhận các thiết chế hiến định độc lập này, một lần nữa cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện triệt để nguyên tắc kiểm soát QLNN.
Kiểm soát đối với quyền lập pháp: Hội đồng Hiến pháp là cơ quan do Quốc hội thành lập, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành[14]. Nếu phát hiện luật vi hiến, Hội đồng Hiến pháp có quyền kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình; có quyền yêu cầu Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản vi phạm Hiến pháp. Có thể nói, đây là thiết chế hiến định độc lập đầu tiên có chức năng hỗ trợ, giúp Quốc hội - cơ quan QLNN cao nhất - thực hiện cơ chế tự kiểm soát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của mình; giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát các văn bản, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật vi hiến do các chủ thể khác ban hành.
Kiểm soát quyền hành pháp: Cơ chế kiểm soát đối với quyền hành pháp được thực hiện trước hết từ cơ quan lập pháp. Theo đó, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992  tiếp tục khẳng định Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ; có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng... Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội và thực hiện quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, xem xét báo cáo của Chính phủ.
Sau khi Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm được thông qua thì một cơ chế kiểm soát mới từ phía Quốc hội đối với Chính phủ được thực hiện. Theo đó, Quốc hội có quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu như Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn như Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng… Về phía các cơ quan tư pháp, việc thực hiện cơ chế kiểm soát từ phía tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp cũng được xác lập thông qua cơ chế phán quyết của Tòa hành chính đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Kiểm soát quyền tư pháp: Tòa án được xác địnhlà cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hiện nay, trong cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong BMNN, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp tham gia vào quyền lập pháp.
Theo Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cơ chế kiểm soát từ phía lập pháp đối với quyền tư pháp được thể hiện thông qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do mình bầu ra như Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao[15].
Cơ chế kiểm soát thứ hai đối với quyền tư pháp là Chủ tịch nước thực hiện quyền kiểm soát tư pháp thông qua việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với chức danh Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Như vậy, kiểm soát QLNN theo chiều ngang chính là cơ chế kiểm soát bên trong giữa các cơ quan trong BMNN. Thông qua việc phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 không chỉ tạo ra cơ chế ngăn chặn sự lạm quyền mà còn tạo được sự chủ động trong hoạt động của mỗi cơ quan, tiến tới sự hoạt động đồng bộ của BMNN.
Về hình thức kiểm soát theo chiều dọc:
Hình thức kiểm soát này được hiểu là sự kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan công quyền (theo chiều từ trên xuống và từ dưới lên) và sự phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
Trước hết, cơ chế kiểm soát theo chiều dọc được thực hiện thông qua hình thức kiểm soát quan trọng nhất, kiểm soát của nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của QLNN, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với chủ thể được ủy quyền là các cơ quan nhà nước. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhân dân có quyền kiểm soát trực tiếp các cơ quan nhà nước thông qua việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước; bầu, miễn nhiệm Đại biểu Quốc hội, giám sát hoạt động của Đại biểu Quốc hội; thông qua Quốc hội, nhân dân có quyền lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn… Bên cạnh đó, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp của mình, nhân dân thực hiện việc giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức[16]. Đối với cách tiếp cận giám sát từ dưới lên: nhân dân có quyền nêu ý kiến, nguyện vọng của mình đối với Quốc hội, các cơ quan và tổ chức hữu quan thông qua các đại biểu do mình bầu ra…
Thứ hai, về sự phân cấp, phân quyền, kiểm soát giữa trung ương và địa phương: Dự thảo sửa đổi Hiến pháp ghi nhận Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) là một thể thống nhất (dưới tên chung là chính quyền địa phương), có vị trí quan trọng trong tổ chức và hoạt động của BMNN. Điều 116, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định: “HĐND là cơ quan QLNN ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương; UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Chủ tịch UBND và các thành viên của UBND chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của UBND và chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ được giao trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”[17].
Như vậy, trong mối quan hệ với các cơ quan trung ương, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã quy định cụ thể về vị ví, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương. Việc quy định này vừa bảo đảm cho chính quyền địa phương chủ động, linh hoạt trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn tại địa phương, vừa giúp các cơ quan trung ương có điều kiện kiểm soát việc thực thi nhiệm vụ của cơ quan này. Theo đó, sự kiểm soát từ phía cơ quan lập pháp đối với chính quyền địa phương được thể hiện qua việc UBTVQH có quyền hướng dẫn, giám sát, kiểm tra hoạt động của HĐND, có quyền bãi bỏ các nghị quyết sai trái của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giải tán HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp HĐND đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân[18].
Từ phía cơ quan hành pháp, bên cạnh chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo công tác của UBND các cấp, Chính phủ có quyền kiểm tra HĐND trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên[19]... Thủ tướng Chính phủ có quyền kiểm tra hoạt động của HĐND và UBND, đình chỉ, bãi bỏ các văn bản sai trái của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; phê chuẩn, bầu, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tóm lại, kiểm soát quyền lực là một trong những nội dung quan trọng trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNN ta, đã được thực tiễn chứng minh và kiểm nghiệm. Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp tục phân công, phân nhiệm một cách rạch ròi, hợp lý, khoa học giữa ba quyền, có sự phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát lẫn nhau trong thực thi QLNN là một công việc cần phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng và hoàn thiện BMNN, mà trước hết là việc quy định cụ thể nội dung này trong Hiến pháp.

 


[1] QLNN được hiểu là quyền lực của nhân dân trao cho các cơ quan nhà nước tổ chức và thực hiện trên thực tế
[2] Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
[3] Trích Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Nguồn www.dangcongsan.vn
[4] Điểm 2, mục X Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, nguồn Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng cộng sản. http//www.dangcongsan.vn
[5] Điểm 1 mục IX - Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Nguồn Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng cộng sản. http//www.dangcongsan.vn
[6] Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sửa đổi bổ sung năm 2001.
[7] Trích Điểm 2, Mục IV – Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung, phát triển năm 2011.
[8]Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013
[9] Điều 124 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013.
[10] Điều 87 Hiến pháp 1992 ghi rõ: “Chủ tịch nước, UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội. Thủ tục trình Quốc hội dự án luật, kiến nghị về luật do luật định”.
[11] Điều 89 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Tlđd.
[12] Theo đó, đại biểu Quốc hội có hai quyền là quyền trình dự án luật và quyền trình kiến nghị về luật; còn các chủ thể là các cơ quan, tổ chức có quyền trình dự án luật.
[13] Điều 105 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 quy định: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của luật và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó”.
[14] Theo Điều 120, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 . Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013.
[15] Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm nhưng lại do Quốc hội phê chuẩn, do đó sẽ do Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm.
 
[16]Theo điểm 2 Điều 9 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013
[17] Điều 116, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013.
[18]Theo điểm 6, Điều 79, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013.
[19] Theo điểm 2, Điều 101 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992. Nguồn: nld.com.vn – Toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, ngày 2/1/2013.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2+3(234+235), tháng 2/2013)


Thống kê truy cập

33933363

Tổng truy cập