Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp năm 2013

01/10/2014

GS,TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG

Đại học Quốc gia Hà Nội

Sự tồn tại của bất kỳ nhà nước nào cũng đều gắn liền với chức năng xét xử. Ngay từ thời Hy Lạp, La Mã cổ, người ta đã khẳng định: Ở đâu có pháp luật thì ở đó có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm túc. Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt động của các cơ quan trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Đó là các cơ quan tư pháp có chức năng xét xử những hành vi vi phạm pháp luật. Muốn cho các cơ quan tư pháp xét xử tốt thì Tòa án phải độc lập. Nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong tổ chức và hoạt động của Tòa án là sự độc lập. Lịch sử văn minh nhân loại đã có những cố gắng rất lớn cho việc thực hiện nguyên tắc này.
Untitled_311.png
Ảnh minh họa: (Nguồn internet)
 
1. Tòa án độc lập phải cơ cấu thiết chế độc lập
Trong nhà nước hiện đại, nguyên tắc độc lập của Tòa án có nguồn gốc từ học thuyết phân quyền, theo đó quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tạo thành ba nhánh độc lập của quyền lực nhà nước, hình thành một cơ chế chế ước và cân bằng lẫn nhau, nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền lực làm tổn hại đến xã hội tự do. Sự độc lập này còn có nghĩa là cả hệ thống Tòa án với tư cách là một thiết chế, cũng như từng thẩm phán giải quyết các vụ việc phải có khả năng thực hiện trách nhiệm nghề nghiệp của mình mà không chịu ảnh hưởng của các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Dựa trên nguyên tắc phân quyền, quyền lực của Tòa án phải được tách rời khỏi sự ảnh hưởng của quyền lực lập pháp và hành pháp. Sự tách quyền tư pháp ra khỏi quyền lập pháp và nhất là hành pháp là một thành công rất lớn của cách mạng dân chủ tư sản.
 Hệ thống Tòa án với tư cách là một thể thống nhất được giao chức năng xét xử các tranh chấp giữa người dân với nhau, hoặc giữa người dân với các cơ quan nhà nước. Đương nhiên là có nhiều cách thức để giải quyết tranh chấp khác nhau, đặc biệt khi tranh chấp không mang bản chất hình sự, và các bên trong tranh chấp có thể không chọn Tòa án là cơ quan phân xử đầu tiên. Họ có thể gặp gỡ nhau để thỏa thuận về một biện pháp giải quyết được chấp nhận bởi cả hai bên; hay họ có thể yêu cầu một bên thứ ba, ví dụ như trọng tài hoặc hòa giải viên để giúp họ giải quyết tranh chấp.
Mục đích của nguyên tắc Tòa án độc lập là làm cho thẩm phán được tự do trong xét xử để Tòa án thuận tiện hơn trong việc phục vụ công lý, bảo vệ quyền lợi của các bên. Tính độc lập của Tòa án thể hiện ở việc Tòa án phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên bản chất của sự việc và theo luật pháp mà không chịu những hạn chế, tác động hay ảnh hưởng không phù hợp, hoặc sự dụ dỗ, đe dọa hay can thiệp sai trái, một cách trực tiếp hay gián tiếp, từ bất cứ chủ thể nào, với bất cứ lý do nào. Thêm vào đó, Tòa án phải có quyền tài phán đối với mọi vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử và phải có quyền lực riêng để quyết định xem một vụ việc được trình lên Tòa án có thuộc thẩm quyền của Tòa theo như luật pháp quy định hay không.
Nguyên tắc độc lập của Tòa án cũng đòi hỏi không một chủ thể nào được can thiệp một cách vô cớ hay không thoả đáng vào quá trình xét xử, cũng như không được xét lại các phán quyết của Tòa án. Chỉ có các Tòa án cấp trên mới có quyền xét lại các phán quyết của Tòa án cấp dưới theo quy trình tố tụng. Thêm vào đó, nguyên tắc này gắn với quyền của mọi người được xét xử bởi các Toà án thông thường, với những thủ tục pháp lý đã được ấn định. Điều đó có nghĩa là việc lập ra một Toà án đặc biệt nào đó mà không sử dụng những thủ tục đã được pháp luật ấn định một cách hợp lệ trong quá trình xét xử để thay thế cho các Tòa án thông thường được lập ra theo pháp luật, sẽ bị coi là vi phạm nguyên tắc độc lập của Tòa án.
Ngoài việc thể hiện ở hệ thống thiết chế độc lập, sự độc lập tư pháp còn phải được thể hiện ở sự độc lập của mỗi cấp xét xử. Khác với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, các Tòa án, về mặt tổ chức, không hợp thành một hệ thống theo kiểu "ngành dọc" từ trung ương đến địa phương. Hệ thống các Tòa án bao gồm những cấp xét xử theo thẩm quyền tố tụng, khi xét xử, các Hội đồng xét xử hoàn toàn độc lập trên cơ sở pháp luật và ý thức pháp luật của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (hoặc các chức danh tư pháp tương tự). Ở Tòa án, chỉ có quan hệ giữa tòa "cấp cao hơn" và "cấp thấp hơn" về thẩm quyền tố tụng mà không có "tòa cấp trên" và "tòa cấp dưới".
Hiện nay, đa phần các nước tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử nhằm tăng cường tính độc lập của tòa án đối với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, đồng thời hạn chế sự can thiệp của các cơ quan tư pháp cấp trên. Nguyên tắc tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử được thiết lập trên một quản hạt nhất định. Quản hạt của Tòa án không trùng với đơn vị hành chính lãnh thổ để đảm bảo sự độc lập cho Tòa án về cả chiều ngang lẫn chiều dọc (độc lập với cả bên trong lẫn bên ngoài) tránh sự can thiệp của các cơ quan quyền lực nhà nước, các quan chức hành chính địa phương vào hoạt động xét xử cũng như tránh sự can thiệp của Tòa án cấp trên đối với cấp dưới…
Tổ chức Tòa án theo nguyên tắc thẩm quyền xét xử, thành lập Tòa án khu vực đã trở thành cách thức phổ biến trên thế giới. Theo đó, một mô hình chung được áp dụng là: Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm. Hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân thủ chặt chẽ theo các nguyên tắc xét xử và các thủ tục tố tụng được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là nguyên tắc tư pháp phải có hai cấp xét xử, xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Nguyên tắc này có ý nghĩa rằng, sự cẩn trọng trong hoạt động tư pháp là điều hết sức cần thiết, vì việc tước đi hoặc làm giảm đi cuộc sống dù chỉ là của một người cũng là một việc vô cùng hệ trọng đối với con người. Hoạt động xét xử liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đương sự và ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội, nên cần thận trọng trong xét xử. Tổ chức Tòa án theo hai cấp xét xử để cấp trên có thể xem xét lại phán quyết của Tòa án cấp dưới theo thủ tục kháng cáo, kháng nghị nhằm đảm bảo sự công bằng, tránh oan sai cho các đương sự, bị can, bị cáo, là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc xem xét lại các phán quyết của Tòa án cấp dưới bắt buộc phải được tiến hành theo các thủ tục tố tụng chặt chẽ nhằm đảm bảo tính độc lập giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới.
Một vấn đề có mối liên quan mật thiết đến tính hành chính độc lập của hệ thống các cơ quan Tòa án là vấn đề ngân sách cho Tòa án hoạt động. Tòa án không thể độc lập một khi các khoản chi tiêu có liên quan đến hoạt động của Tòa án lại phụ thuộc. Có nhiều phương thức hiện đang áp dụng ở các nước về dự toán và phân bổ ngân sách cho ngành Tòa án và cho hoạt động xét xử. Cách thứ nhất là trao cho Tòa án quyền dự trù và trình ngân sách của mình lên Quốc hội. Cơ sở lập luận cho phương thức này là Toà án hiểu biết về nhu cầu của mình hơn ai hết, biết phải làm thế nào để có thể hoạt động hiệu quả, và việc Toà án tự kiểm soát chi tiêu ngân sách của mình sẽ duy trì được tính độc lập của Toà án. Ở Hoa Kỳ, Hội nghị tư pháp toàn quốc lập dự trù ngân sách rồi sau đó chuyển cho Hạ viện và cơ quan hành pháp để góp ý, nhưng không được sửa đổi bất kỳ điểm nào của bản dự trù này. Sau đó, Hạ viện sẽ ấn định tổng mức ngân sách chi tiêu cho ngành tư pháp[1]. Ở Nhật, dự trù ngân sách dành cho Tòa án do chính ngành Tòa án chuẩn bị nhưng cơ quan hành pháp xét duyệt và trình Quốc hội; tuy nhiên, Toà án được phép bảo vệ những đề xuất của mình khi thảo luận vấn đề này tại Quốc hội.
Một số ý kiến đề xuất rằng nên để một cơ quan có thẩm quyền phối hợp cùng với Tòa án dự trù ngân sách dành cho Toà án[2]. Chánh án R.D. Nicholson của Australia đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của Toà án trong việc dự toán ngân sách cho ngành tư pháp khi nói: “Việc lập dự trù ngân sách cho ngành Tòa án bởi bất kỳ cơ quan nào khác không phải là Tòa án và việc Chính phủ kiểm soát cách các Tòa án sử dụng ngân sách được phân bổ là mối đe doạ tiềm tàng cho sự độc lập xét xử”[3].
Trong suốt một thời gian dài, trách nhiệm quản lý hệ thống Tòa án thuộc về cơ quan hành pháp thông qua Bộ Tư pháp là điều hết sức bình thường ở nhiều nước và trách nhiệm này bao gồm cả việc quản lý các nguồn lực tài chính, các cơ sở trang thiết bị khác, kể cả tuyển dụng và đào tạo công chức tư pháp v.v.. Việc cơ quan hành pháp quản lý hệ thống Tòa án đã dấy lên một quan ngại về sự kiểm soát hay tác động thái quá đối với các hoạt động xét xử của Tòa án. Do vậy, các Tòa án liên bang của Hoa Kỳ đã được đặt dưới sự quản lý của Cơ quan quản lý Tòa án thuộc Tòa án Tối cao từ năm 1939[4]. Những năm gần đây, một số nước Châu Âu đã tiến hành những cải cách tư pháp theo hướng này: Đan Mạch, Thuỵ Điển, Na Uy[5]... Nhiều nước đã nghiên cứu và áp dụng mô hình thành lập Hội đồng Quản lý tư pháp độc lập với thành phần bao gồm đại diện của là một số thẩm phán Tòa án tối cao và Tòa án địa phương và một số cơ quan ngoài Tòa án để bảo đảm sự khách quan và độc lập Tòa án[6].
2. Tòa án độc lập phải có thẩm phán độc lập
Các Tòa án chỉ độc lập khi bản thân các thành viên của Tòa án, tức là thẩm phán, phải độc lập. Tính độc lập của thẩm phán chính là một trong những yếu tố cơ bản của bộ máy tư pháp độc lập. Nếu các thẩm phán có thể bị chính phủ hành pháp hay các cơ quan chính quyền khác can thiệp, thay đổi nhiệm vụ vào bất kỳ thời điểm nào thì tính độc lập của Tòa án về mặt thể chế không thể đảm bảo. Thẩm phán chỉ có thể hoàn thành tốt vai trò của mình khi hoàn toàn được độc lập trong hoạt động chuyên môn. Chính hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán là nhằm mục đích bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, tránh mọi sự lợi dụng chức quyền.
Độc lập của thẩm phán phải được hiểu là độc lập trên mọi phương diện (độc lập cả bên trong và lẫn độc lập cả bên ngoài). Độc lập bên trong của thẩm phán được hiểu là mọi phán quyết của thẩm phán Tòa án cấp dưới không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên, không bị ảnh hưởng bởi các quan hệ nội bộ, quan hệ đồng nghiệp với nhau. Các bản án, quyết định phán xét sai, sẽ được xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, dân sự… Khi xét xử, thẩm phán không bị phụ thuộc vào các quyết định hoặc kết luận của cơ quan điều tra (độc lập với hồ sơ vụ án), độc lập với kết luận của Viện Công tố (độc lập với cáo trạng và quyết định truy tố của Viện Công tố). Bản án của Tòa án chỉ căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Vẫn cần phải nhắc lại rằng, độc lập không có nghĩa là chỉ khi xét xử mà còn phải độc lập trong mọi tình huống liên quan đến vụ việc xét xử cụ thể mà thẩm phán thụ lý.
Thẩm phán không chỉ phải độc lập với bên trong mà còn phải độc lập với bên ngoài, độc lập với các cơ quan, kể cả các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức, cá nhân, đương sự, người thân, bạn bè, quyền lợi tài chính, nhân thân liên quan vụ án, áp lực xã hội… Thẩm phán không phải chịu bất kỳ sự chỉ đạo, ảnh hưởng nào từ phía họ đối với các phán quyết của mình. Hoạt động xét xử của Tòa án không chỉ dành cho các hành vi vi phạm pháp luật của mỗi cá nhân, kể cả các quan chức cao cấp của nhà nước mà còn mở rộng ra cả hoạt động của các tổ chức, kể cả cơ quan quyền lực nhà nước trung ương.
Chức năng của thẩm phán là người đại diện cho công lý chứ không hoàn toàn đại diện cho cử tri, trong nhiều trường hợp công lý không đồng nghĩa với đa số cử tri, với khuynh hướng, chính sách nào đó của lập pháp và hành pháp. Đôi khi, các thẩm phán còn phải có trách nhiệm phán quyết sự đúng sai của các chính sách, đường lối do lập pháp và hành pháp tạo ra. Vì vậy, sự độc lập cho việc phán xử vô tư, công bằng của thẩm phán là rất cần thiết. Từ trước tới nay, người ta đã nghĩ ra rất nhiều giải pháp để tăng cường sự độc lập cho thẩm phán. Có thể kể ra những giải pháp sau đây:
Một là, thẩm phán phải có nhiệm kỳ lâu dài, thậm chí có thể là suốt đời, lương bổng tương xứng, không bị các hoạt động chính trị của lập pháp và hành pháp chi phối. Nếu thẩm phán chỉ được bổ nhiệm trong một nhiệm kỳ ngắn ngủi theo bất cứ một thể thức nào hoặc do bất cứ ngành/quyền nào cũng vậy, họ sẽ không có được một tinh thần độc lập và cương quyết. Hơn nữa, thẩm phán là một nghề đặc thù luôn phải chịu áp lực từ dư luận xã hội và bị đe dọa bởi các thế lực nguy hiểm trong xã hội, nên nếu không có một nhiệm kỳ vững chắc, dài lâu và chế độ lương bổng tương xứng thì khó có thể tìm được những người có tài, có đức, lại chí công, vô tư trong hoạt động xét xử. Chính sự độc lập của thẩm phán là yếu tố quan trọng đáp ứng được yêu cầu của nhà nước pháp quyền về việc hạn chế quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện các quyền dân chủ, quyền con người.
Hai là,thẩm phán phải do bổ nhiệm. Những người được chọn vào làm việc ở cơ quan xét xử phải là các cá nhân liêm khiết, có khả năng, được đào tạo thích hợp và có chuyên môn về luật pháp. Việc đề bạt thẩm phán phải dựa vào những yếu tố khách quan, đặc biệt là năng lực, tính liêm khiết và kinh nghiệm. Bất cứ cách thức lựa chọn thẩm phán Tòa án nào cũng phải bảo đảm nguyên tắc không bổ nhiệm vì những động cơ không chính đáng. Trong việc lựa chọn thẩm phán, không được phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị và các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, thành phần xuất thân, trừ yêu cầu rằng, một ứng viên được chọn vào cơ quan xét xử phải là công dân của quốc gia có liên quan và yêu cầu đó không bị coi là có tính chất phân biệt đối xử.
Nhiệm kỳ của thẩm phán, sự độc lập, an ninh, thù lao thích đáng, các điều kiện dịch vụ, lương hưu và tuổi về hưu phải được pháp luật bảo đảm. Thẩm phán dù được bổ nhiệm hay bầu ra đều phải được bảo đảm thời gian làm việc cho đến tuổi về hưu bắt buộc hay hết nhiệm kỳ quy định. Trong Tòa án, nơi thẩm phán làm việc, việc phân công thẩm phán xét xử các vụ việc là vấn đề nội bộ quản lý điều hành xét xử.      
Theo Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người của Liên hiệp quốc, bất cứ một lời kết tội hay khiếu nại chống lại thẩm phán về khả năng xét xử hay chuyên môn của họ phải được xử lý ngay và công minh theo một thủ tục thích hợp. Thẩm phán có quyền đòi hỏi được xét xử công bằng. Việc xem xét vấn đề ở giai đoạn đầu phải được giữ bí mật, trừ khi thẩm phán có đề nghị khác. Thêm vào đó, thẩm phán có thể bị đình chỉ hay cách chức do không có năng lực hoặc vì những hành vi khiến họ không phù hợp với việc thực hiện các nhiệm vụ của thẩm phán, tuy nhiên, tất cả các thủ tục kỷ luật, đình chỉ hay cách chức phải được quyết định theo các tiêu chuẩn đạo đức đã được quy định. Ngoài ra, những quyết định về thủ tục kỷ luật, đình chỉ hay cách chức phải được xem xét lại một cách độc lập. 
Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người có hai điều nói về chính quyền trong việc đảm bảo quyền con người và hai điều đó đều là những quy phạm về Tòa án[7].  Với mục đích bảo vệ quyền con người, Liên hiệp quốc rất quan tâm đến tính độc lập của Tòa án. Đã có rất nhiều nỗ lực từ phía Liên hiệp quốc và các cơ quan của Liên hiệp quốc xây dựng cơ sở pháp lý cho nguyên tắc tính độc lập của Tòa án. Bên cạnh việc chỉ ra những vi phạm nguyên tắc độc lập của Tòa án như thuyên chuyển, bổ nhiệm với nhiệm kỳ ngắn, Liên hiệp quốc đã đề xuất bộ tiêu chuẩn bảo đảm tính độc lập và tính khách quan của Tòa án bao gồm: Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, lương, quyền miễn trừ, và những đảm bảo sự nghiệp của các thẩm phán… Bản Các nguyên tắc cơ bản của Liên hiệp quốc về tính độc lập của Tòa án được thông qua tại Đại hội lần thứ bảy của Liên hiệp quốc. Lần đầu tiên, vấn đề độc lập của Tòa án là quy định bắt buộc đối với các thành viên của Liên hiệp quốc. Theo các nguyên tắc cơ bản này, tính độc lập của Tòa án có nghĩa là: "Hệ thống Tòa án phải quyết định những vấn đề mà nó phải giải quyết một cách khách quan, trên cơ sở các yếu tố sự kiện của vấn đề và theo quy định của pháp luật, mà không có bất kỳ một sự kiềm chế, những ảnh hưởng không thích hợp, cám dỗ, sức ép, hay đe dọa can thiệp nào trực tiếp hoặc gián tiếp từ bất kỳ chủ thể nào, vì bất kỳ lý do nào". Các nguyên tắc cơ bản của Liên hiệp quốc chủ yếu tập trung vào những yếu tố bảo đảm tính độc lập của cá nhân thẩm phán gồm: cơ chế tuyển dụng, điều kiện làm việc, bảo đảm sự nghiệp, cơ chế kỷ luật, cách chức và đình chỉ chức vụ thẩm phán…
Ủy ban Quyền con người của Liên hiệp quốc có đóng góp quan trong trong việc thúc đẩy đảm bảo tính độc lập của Tòa án. Khi ban hành Khuyến nghị chung thứ 13 về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập, Ủy ban đã đưa ra khuyến nghị chung của mình về tính độc lập của Tòa án để bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc tế. Phạm vi áp dụng nguyên tắc theo quan điểm của Ủy ban bao gồm tất cả các loại Tòa án, kể cả Tòa án có thẩm quyền chung cho đến các Tòa án có thẩm quyền riêng, trừ Tòa án quân sự. Trong trường hợp giải quyết các vụ việc dân sự, Tòa án quân sự cũng phải tuân thủ nguyên tắc độc lập này, hoặc phải rút những vụ việc dân sự ra khỏi thẩm quyền xét xử của Tòa quân sự.
3. Nguyên tắc độc lập của Tòa án nước ta
Các bản Hiến pháp của Việt Nam đều có quy định về sự độc lập của Tòa án. Nhưng đi vào chi tiết thì nguyên tắc này được quy định trong các Hiến pháp rất khác nhau: Hiến pháp năm 1946 quy định “Khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”; Hiến pháp năm 1959 viết: “Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp mới được thông qua năm 2013 có quy định tương tự:“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (Điều 103).
Ở nghĩa hẹp nhất của các thuật ngữ trong các quy định nói trên có thể được hiểu chính xác rằng, Tòa án chỉ có thể độc lập trong thời gian diễn ra việc xét xử, còn ngoài thời gian xét xử, mọi vấn đề liên quan đến Tòa án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân không cần thiết phải độc lập. Do vậy, khó có thể làm cho Tòa án độc lập trên thực tế. Như trên đã phân tích, nguyên tắc độc lập của Tòa án không chỉ giản đơn nằm ở trong thời gian xét xử, mà phần lớn phải ở ngoài thời gian xét xử. Muốn xét xử độc lập thì thiết chế phải độc lập, thẩm phán phải độc lập cả ngoài thời gian xét xử. Cho đến nay, dù chúng ta đã có sự phân công phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng trên thực tế vẫn chưa thể thay đổi những biểu hiện đã quá quen thuộc của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa.    
Phân tích các quy định và tinh thần của Hiến pháp năm 2013, phải khẳng định rằng chưa bao giờ Hiến pháp và tinh thần của nó lại vì cơ quan tư pháp như Hiến pháp này. Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Đây là điểm mới nổi bật, vì trong lịch sử lập hiến Việt Nam chưa bao giờ có sự thừa nhận quyền tư pháp do Tòa án thực hiện, tương tự như ở các nhà nước phát triển. Và hơn nữa, cũng là lần đầu tiên Hiến pháp quy định rõ nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Tòa án nhân dân lên trước và lên trên nhiệm vụ bảo vệ chế độ như quy định của các Hiến pháp trước đây. Đó là những điểm rất sáng của Hiến pháp mới.
Nhưng thật tiếc, trong bản Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án (sửa đổi) gần đây, về cơ bản Dự thảo chưa quy định rõ nội hàm của nguyên tắc độc lập của Tòa án cả về mặt thiết chế lẫn của cá nhân thẩm phán. Mặc dù vẫn biết Tòa án được tổ chức riêng thành một hệ thống nhưng bản thân chúng không là hệ thống, Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án (sửa đổi) đang mang nhiều dấu ấn tổ chức của hoạt động quản lý, làm thành một hệ thống phụ thuộc từ trên xuống dưới, khép kín. Tòa án tối cao vẫn đang mang nặng tính quản lý, không phải là cấp xét xử cuối cùng, vì chỉ được quy định là cấp giám đốc thẩm và tái thẩm. Điều này được thể hiện rất rõ trong tờ trình của Tòa án nhân dân tối cao: “Theo quy định tại Điều 104 của Hiến pháp mới và cơ cấu, tổ chức Tòa án nhân dân 4 cấp thì Tòa án nhân dân tối cao không thực hiện chức năng xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện các chức năng giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng kết thực tiễn xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quản lý các Tòa án về tổ chức (quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ...)”.
Dự thảo này khiến chúng ta phải suy nghĩ. Mặc dù đã có những cố gắng nhất định cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 cũng như cố gắng tổ chức thực hiện nguyên tắc độc lập của Tòa án, nhưng nội hàm của nguyên tắc độc lập của Tòa án chưa được thể hiện một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành nó, như không có các quy định sự độc lập đầy đủ về mặt thể chế lẫn sự độc lập về con người. Đây là một trong những nguyên nhân có thể tiếp tục gây nên tình trạng yếu kém của Tòa án như trước đây. Luật Tổ chức Tòa án cần phải cố gắng khắc phục./.

 


[1] Sir Nicolas Brown-Wilkinson, Independence of the Judiciary in the 1980s, 1988, Public Law, at 44.
[2] Điều 25 của Dự thảo các Nguyên tắc Syracuse; Đoạn 2.42 của Tuyên ngôn chung về sự Độc lập của Thẩm phán; Đoạn 34 của Dự thảo Singhvi; Tuyên bố Bắc Kinh...
[3] Nicholson R.D, Judicial Independence and Accountability: Can they Co-exist, 1993 Australia Law Journal, 404.
[4] Thông tin tác giả thu thập được khi tới thăm cơ quan này năm 1997.
[5] Thông tin tác giả thu thập được khi tới thăm Tòa án Tối cao Đan Mạch và Thuỵ Điển năm 1997.
[6] Xem, Lưu Tiến Dũng: Độc lập của các Tòa án của các Nhà nước qua một góc nhìn so sánh. Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2003.
[7]"Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản của họ đã được Hiến pháp hay pháp luật thừa nhận", Điều 8 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948;
"Mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng hoàn toàn trong việc xem xét công bằng và công khai bởi một Tòa án độc lập và không thiên vị để quyết định các quyền và nghĩa vụ của họ cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ", Điều 10, Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948.

 

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20(276), tháng 10/2014)


Thống kê truy cập

33060614

Tổng truy cập