Chính sách xây dựng pháp luật: thực trạng và giải pháp

01/12/2013

TS. HOÀNG VĂN TÚ

Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp, Ủy ban thường vụ Quốc hội

1. Một số vấn đề chung về chính sách xây dựng pháp luật 
a) Khái niệm và cấu trúc của chính sách xây dựng pháp luật
Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó[1]; là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc nhóm người theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề[2]. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, là yếu tố bảo đảm sự ổn định và trật tự xã hội[3]. Xây dựng pháp luật được hiểu là hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy định của pháp luật (tức là các quy phạm pháp luật) cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Nói một cách khác, là hoạt động “đưa ý chí của Nhà nước, ý chí của nhân dân lên thành pháp luật”[4].
Như vậy có thể hiểu, chính sách xây dựng pháp luật là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực ban hành, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các quy định của pháp luật cho phù hợp với nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội, phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Cấu trúc của chính sách nói chung và chính sách xây dựng pháp luật nói riêng gồm các bộ phận sau:
- Dự định (thể hiện sự mong muốn của Đảng, Nhà nước đối với công tác xây dựng pháp luật);
- Mục tiêu cụ thể (chi tiết hóa dự định thành các mục tiêu cụ thể để đạt được):
- Đề xuất (đưa ra các cách thức, phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đã đề ra);
- Các quyết định hoặc lựa chọn cụ thể (như các giải pháp hoặc trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có liên quan);
- Hiệu lực.
b) Chu trình chính sách xây dựng pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng
Chu trình chính sách xây dựng pháp luật được thể hiện qua sơ đồ sau:
1_142.jpg
Trong đó, quá trình ban hành chính sách về pháp luật gồm các công đoạn như:
·         Thiết lập nội dung chính sách xây dựng pháp luật gồm xác định nội dung, mục tiêu cụ thể của chính sách;
·         Xây dựng các phương án để lựa chọn;
·         Dự đoán kết quả, tác động của chính sách trong tương lai;
·         Quyết định ban hành chính sách;
·         Tổ chức thực hiện;
·         Đánh giá và điều chỉnh nếu cần thiết.
Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới chính sách xây dựng pháp luật gồm:
·         Đặc điểm của nhà nước, xã hội gồm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo…;
·         Yếu tố chính trị gồm tập hợp lập trường, thái độ, mục tiêu của hệ thống chính trị, của các thành phần của hệ thống chính trị, đặc biệt của giai cấp cầm quyền và sự tham gia của người dân;
·         Nguồn lực gồm năng lực, trình độ và kỹ năng của nhà hoạch định chính sách; nguồn lực tài chính…;
·         Các yếu tố kỹ thuật như quy trình ban hành chính sách, phương tiện và công cụ hỗ trợ…
2. Thực trạng ban hành chính sách xây dựng pháp luật ở nước ta trong thời gian qua
a) Nguồn văn bản chứa đựng chính sách xây dựng pháp luật
- Các văn kiện của Đảng: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, văn kiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, văn kiện của các Ban của Đảng. Ví dụ: Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Hay Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
- Hiến pháp: Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1988, 1989, 2001;
- Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội: Các Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ và hàng năm; Nghị quyết số 900 của UBTVQH11 ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW; Nghị quyết số 563/NQ-UBTVQH13 ngày 21/01/2013 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)…
- Các Điều ước quốc tế song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết, gia nhập:  Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm hàng hải do xả chất thải và các chất khác năm 1972; Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, về quyền trẻ em năm 1989…
b) Những chính sách lớn về xây dựng pháp luật của nước ta trong thời gian vừa qua
Thứ nhất:  Chính sách xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung
- Văn bản thể hiện chính sách: Nhóm chính sách này được thể hiện tập trung trong hai văn bản, đó là (1) Nghị quyết số 48/NQ/TƯ của Bộ Chính trị ban hành ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và (2) Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW là hai văn bản thể hiện một cách tập trung, đồng bộ, chi tiết và thể hiện rõ nét nhất chính sách xây dựng pháp luật của nước ta.
- Mục tiêu: (1) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch; (2) trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) , xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (3) đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; (4) phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
- Định hướng: Tập trung xây dựng và hoàn thiện pháp luật (1) về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (2) về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; (3) về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; (4) về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội; (5) về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; (6) về hội nhập quốc tế.
- Giải pháp: (1) Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật; (2) Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến pháp luật đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật. Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); (3) Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội; (4) Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật; (5) Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật; (6) Hoàn thiện pháp luật về Công báo; (7) Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
 Thứ hai:  Chính sách xây dựng pháp luật phục vụ quá trình cải cách tư pháp
- Văn bản thể hiện chính sách: Nhóm chính sách này được thể hiện tập trung trong các văn bản là (1) Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; (2) Nghị quyết 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; (3) Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW.
- Mục tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
- Định hướng: (1) Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; (2) Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh; (4) Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
- Giải pháp: (1) Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp; (2) Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân; (3) Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp; (4) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; (5) Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với cơ quan tư pháp; (6) Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp; (7) Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; (8) Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
Thứ ba: Chính sách xây dựng pháp luật phục vụ quá trình cải cách hành chính (CCHC)
- Văn bản thể hiện chính sách: Nhóm chính sách này được thể hiện tập trung trong hai văn bản là (1) Nghị quyết số 17-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 01/08/2007 (Hội nghị lần thứ 5, Khóa X) về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; (2) Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; (3) Quyết định số 896/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8/6/2013 phê duyệt “Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020”.
- Mục tiêu: Đẩy mạnh CCHC nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
- Định hướng và giải pháp: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCHC; (2) Thực hiện đồng bộ CCHC với cải cách lập pháp, cải cách tư pháp; (3) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế; (4) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; (5) Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước; (6) Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức; (7) Cải cách tài chính công; (8) Hiện đại hoá nền hành chính; (9) Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với nhân dân, huy động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước; (10) Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên đối với công tác CCHC.
3. Một số nhận xét, đánh giá ban đầu về hệ thống chính sách xây dựng pháp luật ở nước ta từ thực tiễn thời gian qua 
 Bài viết này không đi sâu trình bày những kết quả thực tiễn thi hành của ba nhóm chính sách nêu trên mà chỉ đưa ra một số đánh giá, nhận xét ban đầu (tập trung vào những hạn chế, bất cập và nguyên nhân) về các chính sách xây dựng pháp luật gồm ba vấn đề sau:
(i) Xây dựng và quyết định ban hành chính sách (gồm khâu chuẩn bị và tính kịp thời trong việc ban hành chính sách xây dựng pháp luật);
(ii) Tổ chức thực hiện chính sách (gồm phổ biến, quán triệt, thể chế , kiểm tra…);
(iii) Đánh giá để điều chỉnh chính sách nếu cần (gồm đánh giá về mức độ đạt được mục tiêu và những hạn chế, bất cập của chính sách xây dựng pháp luật từ thực tiễn triển khai các định hướng, giải pháp mà chính sách đã đề ra).
3.1. Nhận xét, đánh giá về công tác xây dựng, quyết định ban hành chính sách xây dựng pháp luật trong thời gian qua
- Kết quả đạt được: Các nhóm chính sách xây dựng pháp luật được Đảng, Nhà nước ta nghiên cứu, chuẩn bị khá kỹ lưỡng trước khi quyết định ban hành và trên cơ sở nhu cầu, đòi hỏi của thực tiễn.
- Hạn chế: (i) Thời điểm ban hành các chính sách xây dựng pháp luật còn chậm so với yêu cầu thực tiễn; (ii) các chính sách xây dựng pháp luật được ban hành còn chưa đồng bộ; (iii) chất lượng chính sách còn chưa cao như tính cụ thể, tính khả thi; (iv) quy trình ban hành chính sách đôi khi chưa được tuân thủ.
Ban hành chậm:thực tiễn cho thấy, chúng ta dành quá nhiều thời gian cho quá trình từ nghiên cứu, chuẩn bị đến khi chính thức chính sách được ghi nhận trong văn kiện hoặc thể chế hóa thành pháp luật, cụ thể: chúng ta mất khoảng 7 năm cho việc ban hành hành chủ trương “đổi mới” của Đảng (1986) nếu như tính từ Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8/1979)[5]; khoảng 7 năm cho việc ban hành chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân (2001) nếu tính từ Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (tháng 1/1994)[6]; (iii) khoảng 9 năm cho việc ban hành Nghị quyết số 48, Nghị quyết số 49 (2005) nếu tính từ Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) với việc nhấn mạnh: “Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật; đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”; 2 năm cho việc thể chế Nghị quyết số 48 thành Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007; 04 năm cho việc thể chế Nghị quyết số 17 thành Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020.
Hơn thế nữa, việc thể chế một số chính sách thành pháp luật còn chậm, do đó chưa phát huy ngay được mục tiêu của chính sách. Ví dụ: Báo cáo tổng kết Nghị quyết  49 có nêu như chính sách xây dựng pháp luật để “giảm hình phạt tù, mở rộng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ” nhưng do chưa được thể chế kịp thời vào Bộ luật Hình sự nên trên thực tế hình phạt tù vẫn chiếm đến gần 80%. 
Chưa đồng bộ:Các mốc thời gian trên cũng cho thấy, nếu có sự nghiên cứu đồng bộ thì cả 03 nhóm chính sách trên đều có thể tiến hành cùng một thời điểm. Tuy nhiên trên thực tế, chính sách về cải cách tư pháp được ban hành đầu tiên (Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”); sau đó 3 năm thì Nghị quyết 48 và Nghị quyết 49 ra đời vào năm 2005; và phải đến năm 2007 Nghị quyết 17 mới ban hành, rồi đến năm 2011 Nghị quyết 30c của Chính phủ mới ban hành. Điều này phần nào ảnh hưởng tới tiến độ, cũng như tính toàn diện của hệ thống chính sách xây dựng pháp luật trong thời gian vừa qua.
Chất lượng chính sách chưa cao: Thực tiễn cho thấy, mặc dù đã được chuẩn bị khá kỹ lưỡng trước khi ban hành chính sách nhưng khi xây dựng, chưa có nhiều phương án được đưa ra để lựa chọn; việc dự đoán, đánh giá kết quả và sự tác động của chính sách trong tương lai chưa được quan tâm; việc theo dõi, kiểm tra thực hiện còn ít, tổng kết còn chậm. Do đó, một số chính sách mới dừng ở mức nêu định hướng mà thiếu những giải pháp, lộ trình, mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn. Điều này đã phần nào ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thi hành cũng như kết quả thực hiện. Ví dụ: trong Nghị quyết 49 có nêu một số chủ trương như: “việc bắt phải được xem xét với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể; đối với trường hợp bắt giam cũng được, không bắt giam cũng được thì không bắt giam…” hay tổ chức cơ quan tư pháp gồm 4 cấp và thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra… Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể để tiến hành cũng như lộ trình nên trên thực tế những nội dung này đều không được thực hiện kịp thời, chính xác.
3.2. Nhận xét, đánh giá về công tác tổ chức thực hiện chính sách xây dựng pháp luật trong thời gian qua
- Kết quả đạt được:Các báo cáo sơ kết, tổng kết đều thống nhất nhận định rằng[7], việc phổ biến, quán triệt và xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách trên thực tế được tiến hành chủ động, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng với sự đa dạng, linh hoạt về hình thức, cách thức thực hiện. Do đó, giúp cá nhân, tổ chức có liên quan có nhận thức đúng đắn và thống nhất về nội dung, mục tiêu, phương thức của chính sách; tăng cường sự liên kết, phối hợp và xác định rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ trong quá trình thực hiện. Vì vậy, đã góp phần nhanh chóng đưa chính sách đi vào cuộc sống, được thực hiện nghiêm túc và phát huy hiệu quả.
- Hạn chế: (i) việc chỉ đạo tổ chức thực hiện giữa các chính sách còn chưa thống nhất; (ii) một số nơi còn chậm triển khai hoặc còn mang tính hình thức, thiếu đồng bộ.
Chưa thống nhất:Thực tiễn cho thấy, để tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách lớn (trong đó có chính sách về cải cách tư pháp (Nghị quyết 49) và CCHC (Nghị quyết 17 và Nghị quyết 30c), Đảng, Nhà nước thường thành lập Ban chỉ đạo, nhưng đối với chính sách xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật (Nghị quyết 48) thì lại không thành lập Ban chỉ đạo.
Để thực hiện cải cách tư pháp, Bộ chính trị đã thành lập Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương và theo đó, Ban chỉ đạo ở các địa phương cũng đã được thành lập một cách có hệ thống. Gần đây, ngày 21/9/2011, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định 39-QĐ/TW để thành lập Ban chỉ đạo cải cách tư pháp nhiệm kỳ mới (2011-2016).
Để thực hiện chính sách CCHC, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/1998/QĐ-TTg để thành lập Ban Chỉ đạo CCHC của Chính phủ. Gần đây nhất, ngày 7/8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1348/QĐ-TTg  về việc phê duyệt danh sách Ban Chỉ đạo thực hiện Đề án 896.
Chậm triển khai:Một số chính sách còn chậm được phổ biến, quán triệt hoặc chưa được thể chế hóa thành văn bản quy phạm pháp luật (VBPL).
Báo cáo sơ kết Nghị quyết 48 ngày 25/5/2012 của Đảng Đoàn Quốc hội có nêu: “việc triển khai kế hoạch thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có lúc, có nơi còn chưa kịp thời; sự phối hợp giữa một số cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật còn có những biểu hiện chưa thật chặt chẽ, chưa được đồng bộ”.
Báo cáo của Bộ Nội vụ về tình hình thực hiện công tác CCHC đến tháng 8/2013 và những nhiệm vụ trọng tâm CCHC trong năm 2014 có nêu: “Đến nay, vẫn còn một số bộ, ngành chưa ban hành kế hoạch CCHC năm 2013. Còn một số đề án, dự án tại Nghị quyết 30c/NQ-CP chưa được các bộ, ngành triển khai có hiệu quả[8]”.
3.3. Nhận xét, đánh giá về kết quả triển khai thực hiện các chính sách xây dựng pháp luật trên thực tế
3.3.1. Kết quả đạt được:
Thứ nhất, công tác xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đã có sự chuyển biến tích cực, phù hợp với yêu cầu trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có những đổi mới quan trọng như: (i) giảm bớt một số loại, hình thức VBQPPL (trước năm 2008 là 26 loại, hiện nay còn 19 loại; (ii) tăng cường sự minh bạch, chặt chẽ, dân chủ và huy động được trí tuệ của xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật; (iii) triển khai phương thức ban hành một luật để sửa đổi nhiều đạo luật liên quan.
Thứ ba, hệ thống các VBPL quy định về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị đã cơ bản phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; góp phần quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp, CCHC.
Thứ tư, hệ thống các VBPL quy định về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân đã ngày càng cụ thể, hoàn thiện.
Thứ năm, hệ thống các VBPL về các lĩnh vực của đời sống xã hội như dân sự, kinh tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em, chính sách xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và hội nhập quốc tế cũng được hoàn thiện và mang lại chuyển biến tích cực trên thực tế.
Thứ sáu, công tác đào tạo luật và nghề luật đặc biệt được chú trọng, góp phần quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực để phục vụ công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, cải cách tư pháp và CCHC. Theo đó, hệ thống đào tạo luật đã được mở rộng với 23 cơ sở đào tạo trên cả nước. Số lượng, chất lượng đào tạo nghề luật được nâng cao rõ rệt.
3.3.2. Hạn chế, bất cập
Thứ nhất, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng pháp luật còn hạn chế về công tác đánh giá tác động sơ bộ, thẩm tra… nên chưa xác định thứ tự ưu tiên ban hành văn bản.
Thứ hai, quá trình đổi mới quy trình lập pháp còn chậm, việc tuân thủ các bước chưa nghiêm.
Thứ ba, chất lượng của hệ thống pháp luật hiện hành cũng còn những hạn chế nhất định như: (i) Thiếu tính hệ thống, chưa bảo đảm tính đồng bộ, cân đối; (ii) Còn đa dạng về hình thức; phạm vi điều chỉnh thường rất rộng; (iii) Tính ổn định chưa cao; (iv) Còn mang tính chất định khung, khó áp dụng trực tiếp vào các trường hợp cụ thể mà phải thông qua các văn bản hướng dẫn; (v) Vẫn còn VBQPPL có tính quy phạm thấp
Thứ tư, việc thực hiện chính sách xây dựng pháp luật phục vụ quá trình cải cách tư pháp còn chậm và chưa mang lại sự thay đổi rõ rệt so với mục tiêu chính sách đề ra.
Thứ năm, việc thực hiện chính sách xây dựng pháp luật phục vụ quá trình CCHC nhà nước đã có nhiều thay đổi nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn và mong mỏi của người dân, doanh nghiệp…
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
Thứ nhất, chính sách pháp luật nói chung và chính sách xây dựng pháp luật nói riêng là hết sức khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có thời gian và nguồn lực chất xám cao. Trong khi đó, đất nước ta lại đang trong quá trình đổi mới toàn diện để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN với nhiều điểm đặc thù. Thêm vào đó, trong giai đoạn vừa qua, điều kiện kinh tế, xã hội ở trong nước và quốc tế có nhiều biến động nhanh, mạnh.
Thứ hai, công tác nghiên cứu lý luận nói chung và về chính sách xây dựng pháp luật nói riêng chưa theo kịp với yêu cầu của thực tiễn, chưa có sự gắn kết chặt chẽ phục vụ đắc lực cho các chủ thể có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban hành chính sách xây dựng pháp luật;
Thứ ba, nhận thức và năng lực của một số lãnh đạo, đội ngũ giúp việc về công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xây dựng pháp luật còn chưa thật đầy đủ, sâu sắc và toàn diện.
Thứ tư, quy trình ban hành chính sách chưa thực sự được đề cao và tuân thủ nghiêm túc.
Thứ năm, công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan trọng việc xây dựng, thực hiện chính sách còn thiếu chặt chẽ, thường xuyên. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới tính kịp thời, đầy đủ của chính sách xây dựng pháp luật mà còn ảnh hưởng tới tính khả thi, đồng bộ của chính sách;
Thứ sáu, kinh phí dành cho công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách còn ít, cơ chế còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý.
4. Một số đề xuất, kiến nghị 
a) Về công tác xây dựng, quyết định ban hành chính sách xây dựng pháp luật
Thứ nhất, đề nghị Đảng, Quốc hội, Chính phủ phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành một văn bản thể hiện tập trung, thống nhất và toàn diện về chính sách xây dựng pháp luật.
Thứ hai, trong quá trình xây dựng, quyết định các chính sách xây dựng pháp luật cần phải được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng với những luận cứ đầy đủ, khách quan cho từng phương án; tuân thủ quy trình và bảo đảm sự tham gia của các nhà khoa học, của các cơ quan, tổ chức hữu quan và tầng lớp nhân dân.
Thứ ba, bên cạnh việc nâng cao chất lượng xây dựng các chính sách xây dựng pháp luật thì cần phải có sự gắn kết với việc xây dựng hệ thống các công cụ quản lý khác, các chính sách công khác cũng như chính sách pháp luật nói chung gồm chính sách thực hiện pháp luật, chính sách đào tạo pháp luật, chính sách thông tin pháp luật… để tạo sự đồng bộ.
b) Về công tác tổ chức thực hiện chính sách xây dựng pháp luật
Thứ nhất, cần có cơ chế, cách thức tổ chức thực hiện chính sách xây dựng pháp luật một cách thống nhất, cụ thể; phải xác định rõ chủ thể chịu trách nhiệm đầu mối để bảo đảm tính kịp thời, thống nhất khi triển khai chính sách.
Thứ hai, đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân ở các cấp, các ngành, các địa phương có liên quan đến việc thực hiện chính sách xây dựng pháp luật cần đề cao trách nhiệm trong việc sớm phổ biến, tuyên truyền và xây dựng kế hoạch triển khai chính sách cho đơn vị mình.
Thứ ba, đề nghị cơ quan ban hành chính sách cần tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo, hướng dẫn và đặc biệt là kiểm tra, sơ kết việc thực hiện chính sách xây dựng pháp luật trên thực tế. Điều này không chỉ giúp chính sách được thực hiện hiệu quả, thống nhất mà còn tạo cơ chế phản hồi làm cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách.
c) Về việc sửa đổi, bổ sung chính sách xây dựng pháp luật
Thứ nhất, về mục tiêu, định hướng của chính sách xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần có sự thay đổi theo hướng đồng bộ, toàn diện hơn để phù hợp với chủ trương phát triển “bền vững” dựa trên ba trụ cột là kinh tế - xã hội - môi trường.
Thứ hai, về chương trình xây dựng pháp luật, cần (i) nhanh chóng và tập trung đưa vào Chương trình những VBQPPL có nội dung, vấn đề liên quan đến Hiến pháp mới sau khi được sửa đổi, bổ sung; (ii) xác định nguyên tắc chỉ đưa vào chương trình những VBPL thật sự cần thiết với đời sống xã hội và được chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt. Trong đó, cần phải thực hiện nghiêm túc việc đánh giá, dự kiến tác động của văn bản sau khi được ban hành cũng như về nguồn lực tài chính.
Thứ ba, về cách thức xây dựng VBQPPL, chính sách xây dựng pháp luật cần có sự thay đổi về tư duy trong việc xây dựng, ban hành VBQPPL theo hướng thu hẹp phạm vi, đối tượng điều chỉnh.
Thứ tư, về quy trình lập pháp, cần tiếp tục đổi mới theo hướng (i) duy trì quy trình rút gọn và quy trình một luật sửa nhiều luật; (ii) nâng cao chất lượng và phát huy hơn nữa vai trò của các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra; (iii) tạo cơ chế thuận lợi để các đối tượng chịu sự tác động, các nhà khoa học và nhân dân tham gia vào quy trình lập pháp;
Thứ năm, đối với chính sách xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực (như tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị; về bảo đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân; về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; về giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, lao động, an sinh xã hội, y tế, văn hóa-thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em; về quốc phòng và an ninh quốc gia; về trật tự an toàn xã hội và về hội nhập quốc tế), cần phải cụ thể hóa hơn nữa một số vấn đề cơ bản để tạo định hướng cho việc xây dựng các VBQPPL có liên quan như (i) nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; (ii) cơ chế, phạm vi phân định thẩm quyền giữa các cơ quan trung ương với nhau và giữa trung ương với địa phương; (iii) đặc trưng và cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền, của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; …
Thứ sáu, đối với chính sách xây dựng pháp luật phục vụ quá trình cải cách tư pháp cần (i) bám sát những điểm mới của Hiến pháp sau khi được sửa đổi, bổ sung để có sự điều chỉnh phù hợp, đặc biệt là về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp, vấn đề bảo vệ hiến pháp và tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương; (ii) làm rõ và cụ thể hóa hơn một số chính sách mà trong quá trình thực hiện gặp vướng mắc để đẩy mạnh công tác ban hành văn bản trong lĩnh vực tư pháp như “thành lập tòa án, viện kiểm sát theo khu vực”, “bảo đảm nguyên tắc độc lập của các cơ quan tư pháp”, “lấy tòa án làm trung tâm, tổ chức tòa án theo thẩm quyền và cấp xét xử”, “xây dựng nền công tố mạnh, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát cũng như vai trò kiểm sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát”; “tổ chức lại hệ thống cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối”…; (iii) thực hiện xã hội hóa hợp lý và phát triển hài hòa các cơ quan bổ trợ tư pháp để vừa giảm gánh nặng cho Nhà nước, vừa tạo môi trường đồng bộ cho việc cải cách tổ chức hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra; (iv) chú trọng hơn nữa công tác đào tạo nguồn nhân lực để bảo đảm về năng lực, trình độ và đạo đức nghề nghiệp.
Thứ bảy, đối với chính sách xây dựng pháp luật phục vụ quá trình CCHC nhà nước cần (i) xác định nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của CCHC nhà nước đó là hài hòa giữa quyền lợi của người dân với trách nhiệm quản lý của nhà nước. Cải cách để hướng tới một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại không có nghĩa chỉ chú trọng đến việc loại bỏ, sửa đổi những thủ tục bất hợp lý, bất hợp pháp, không cần thiết, không phù hợp… mà còn phải nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các thủ tục hành chính cần thiết để bảo đảm quyền, lợi ích của nhân dân và thực hiện tốt vai trò quản lý của nhà nước. Hai vấn đề này cần phải được tiến hành đồng bộ, bởi nếu “theo thành tích, phong trào” mà loại bỏ một cách ồ ạt các thủ tục hành chính thì hoạt động quản lý sẽ “buông lỏng” và nhiều hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra; (ii) cần tiến hành cải cách một cách có trọng tâm, trọng điểm theo lộ trình nhất định, đặc biệt về những lĩnh vực mà người dân đang phàn nàn, kêu ca nhiều như đấu thầu, chỉ định thầu; thủ tục về quản lý, sử dụng đất đai, quyền sở hữu nhà; thuế, hải quan…; (iii) tập trung xây dựng, hoàn thiện các VBPL quy định về chế tài xử lý hành chính; (iv) đẩy mạnh công tác xã hội hóa; (v) phát huy vai trò của khoa học và công nghệ để hiện đại hóa hoạt động hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính; (vi) nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có yếu tố hết sức quan trọng là cải cách chế độ, chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức làm việc./.
 
 

 


[1] Từ điển Bách khoa Việt Nam 1, NXB Từ điển Bách khoa, H., 2000, tr. 475
 
[2] James Anderson 2003, dẫn theo Nguyễn Mạnh Hùng, “Tổng quan về chính sách công”
[3] Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia., H.,
[4] PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2011, tr. 9.
 
[5]Bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm có lẽ được đánh dấu bằng chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra” tại Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8/1979). Chỉ một thời gian ngắn, trong cả nước xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới như ở Long An từ giữa năm 1980 đã thí điểm mô hình “mua cao, bán cao”, “bù giá vào lương” thay cho cơ chế “mua cung, bán cấp”; hay ở Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh thí điểm hình thức khoán. Trên cơ sở đó, ngày 13/1/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp; Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 25/CP và 26/CP về xác định quyền tự chủ của các cơ sở trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp. Những tư tưởng này sau đó được phát triển thêm một bước tại Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982); Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12/1983); Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6/1985) và Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986). Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng.
[6] Tại Việt Nam, chưa kể thời gian trước đó để nghiên cứu, thuật ngữ “xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (tháng 1/1994). Và sau đó là Hội nghị Trung ương 8 Khoá VII của Đảng (tháng 1/1995) tiếp tục đặt vấn đề “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN”; Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) nhấn mạnh: “Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
[7] Báo cáo sơ kết Nghị quyết 48 ngày 25/5/2012 của Đảng Đoàn Quốc hội có nêu “Cùng với việc quán triệt, phổ biến, tuyên truyền về nội dung Kế hoạch số 900/UBTVQH11 và Nghị quyết 48-NQ/TW, nhiều cơ quan, tổ chức hữu quan ở trung ương và địa phương còn chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện. Nhìn chung, nội dung của các kế hoạch triển khai của từng cơ quan, tổ chức, địa phương đã bám sát các yêu cầu, nhiệm vụ Kế hoạch 900/UBTVQH11, Nghị quyết 48-NQ/TW đã đề ra… trong thực tế lãnh đạo, chỉ đạo, việc nghiên cứu, tổ chức quán triệt những nội dung định hướng có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của mình nhìn chung đều được thực hiện khá nghiêm túc thông qua việc thực hiện lồng ghép một số định hướng và giải pháp vào các kế hoạch xây dựng pháp luật, kế hoạch kiểm tra, rà soát hệ thống hóa VBPL, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật hàng năm...”
[8] Báo cáo tại Diễn đàn Đối thoại chính sách CCHC năm 2013, tổ chức tại Hà Nội ngày 22/8/2013.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23(255), tháng 12/2013)


Thống kê truy cập

33956514

Tổng truy cập